Thứ Hai, 25 tháng 12, 2023

Mùa Đông

Đông về. Trời lạnh! Cảnh sắc thiên nhiên thay đổi hoàn toàn. Cành cây trơ trụi. Mưa rơi, tuyết đổ. Dòng nước đóng băng. Đêm dài, ngày ngắn. Cái khắc nghiệt của mùa đông làm cho mọi sinh hoạt của đời sống con người cũng bị tê liệt. Nhìn trời thôi đã thấy một sự ảm đảm đến thê lương. Thế giới bị thu nhỏ lại chỉ bằng một khung cửa sổ lạnh tanh, vắng ngắt.


Mùa đông càng trở nên khủng khiếp hơn với những ai đang phải sống cảnh xa nhà, xa quê hương. Nỗi cô đơn chợt ùa đến xâm chiếm con tim. Ngồi một mình, người ta thường hay nghĩ ngợi. Nghĩ về quá khứ, về những người mình yêu thương. Một nỗi buồn nhẹ không tên hoà quyện với một khát khao gì đấy cứ lởn vởn trong tâm trí. Đông ngoài trời, đông cả trong lòng mình.


Người ta sợ mùa đông vì sự lạnh lùng và cái chết chóc nó mang lại cho thế giới tự nhiên và con người. Nhưng chẳng phải vì thế mà nó lại bị bỏ quên. Những ai có tâm hồn nghệ sĩ nhìn thấy trong nét tàn tạ đó của mùa đông một sự cuốn hút lạ thường. Biết bao nhiêu tình khúc về mùa đông ra đời. Bao nhiêu câu chuyện lứa đôi ươm mầm từ cái lạnh của nó. Rất nhiều kỷ niệm trở nên đẹp hơn nhờ gắn kết với mùa đông.


Nhưng đã từ rất lâu, mùa đông của người Kitô hữu đã không còn là một mùa đông cô đơn, buồn bã. Hơn hai ngàn năm trước, cái lạnh của mùa đông đã bị xua tan bằng sự ra đời của một em bé, một em bé rất đơn sơ, yếu đuối, được quấn trong khăn và được đặt trong một máng cỏ giữa trời khuya lạnh giá.


Buổi đêm hôm ấy là một khoảnh khắc định mệnh, là thời điểm mà con người và muôn loài thụ tạo đã mong ngóng bấy lâu nay. Giữa cái đêm đen của trần thế, ánh sáng từ trời đã dọi xuống, làm rạng rỡ cả một vùng hào quang. Bóng tối của tội lỗi, của khổ đau, của kiếp trầm luân bao nhiêu năm nay thống trị địa cầu, nay đã bị xua tan bởi sự giáng lâm của Đấng là ánh sáng chiếu soi muôn loài, Đấng là Ngôi Lời đã hiện diện và tham gia vào công trình tạo dựng trời đất.


Ánh sáng cứu độ ấy cùng với niềm vui hân hoan được ban trước hết cho những người chăn chiên nhỏ bé, một lớp người bị người khác lãng quên, bị đặt ở dưới cùng đáy của xã hội. Đấng ngự trên ngai cao nhất đã đi xuống nơi thấp hèn nhất. Đấng quyền năng nhất đã trở nên yếu đuối nhất. Đấng cao cả nhất đã trở nên nhỏ bé nhất. Thật huyền nhiệm làm sao!


Mùa đông ấy không còn tối vì đã có ánh sáng xuất hiện. Ánh sáng giúp xua tan đi bóng đêm, vốn là căn nguyên của bao nỗi sợ. Có ánh sáng rồi, người ta thấy mình được an toàn. Nhờ ánh sáng, người ta cũng nhìn thấy được mọi sự, thấy bản thân, thấy mọi loài, thấy người khác, thấy con đường đi. Ánh sáng giúp xua tan đi những u uất trong tâm trí mình. Ánh sáng làm cho người ta hiểu được điều bấy lâu nay bị bóng tối phủ vây. Ánh sáng làm đổi mới tất cả.


Ánh sáng đó cũng là tình yêu sưởi ấm tâm hồn, mang bình an đến đụng chạm từng ngõ ngách ở tầng đáy của tâm hồn. Ánh sáng đó làm người ta hân hoan, phấn khởi, thấy mình được trở nên quang minh hơn, giải thoát mình khỏi vũng lầy của những thăng trầm, những lòng luẩn quẩn của biết bao nỗi bận tâm không lối thoát.


Bởi thế, tiết trời dù lạnh nhưng lòng người thì ấm, vì người ta biết mình được yêu, được quý mến, mình không hề bơ vơ lạc lõng giữa cõi vô thường này. Người ta sẽ trở nên khô héo và chết đi khi bị xua trừ, khi không thấy mình được ai yêu. Ngược lại, người nào cảm thấy mình “được yêu” bởi người mình yêu, ấy là người hạnh phúc nhất thế gian này. Họ cảm thấy mình trào tràn sức sống và con tim rung lên những cung bậc xúc cảm khi chứng kiến người mình yêu vì mình mà hy sinh mọi thứ. Có ai đó vì mình mà vui, vì mình mà khóc, vì mình mà chấp nhận đánh đổi tất cả… ắt hẳn là điều tuyệt vời nhất mà mình có thể đợi trông. Tình yêu làm cho con người trở nên tươi mới, và chính nó cũng là sức sống và lửa hồng sưởi ấm giữa trời đông lạnh giá của kiếp người.


Mùa đông của người Kitô hữu là một mùa đông vô cùng rực rỡ và ấm áp, bởi đó được bao bọc bởi ân sủng và tình yêu. Nơi cái nghèo và đơn sơ của “một em bé bọc khăn, nằm trong máng cỏ”, một bầu trời bát ngát của ân sủng toả lan, len vào từng ngỏ ngách của cuộc sống, ngay cả trong kiếp mưu sinh của tầng lớp thấp hèn nhất của xã hội.


Người ta có thể tìm thấy Thiên Chúa ở đâu? Thưa, ngay chính nơi mà người ta tưởng là Ngài không thể/không hề ở đó: nơi cái nghèo, nơi bị bỏ rơi, nơi tâm điểm của màn đêm lạnh lẽo, nơi những góc khuất tăm tối gớm ghiếc của lòng tôi. Ngài đã sinh ra tại đó để biến những nơi tồi tệ ấy thành Thiên Đàng ngập tràn hào quang và tiếng hát Thiên Sứ, điều mà chỉ một mình Ngài mới có thể làm được, bởi Ngài là Đấng Cứu Độ của tôi.


Đông về, một mùa đông rất đẹp, đẹp từ trời cao toả xuống, đẹp từ trong tâm hồn lan ra!


Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Thứ Tư, 20 tháng 12, 2023

Lá thư Giáng Sinh của Chúa Giêsu 2023

Các con yêu dấu,


Ta gửi lá thư này tới các con với tất cả tình yêu và lòng xót thương vô bờ.

 

Mùa Giáng sinh đã tới. Mùa của an bình, niềm vui và hy vọng. Ta là hoàng tử hòa bình từ trời cao đến để mang hòa bình cho nhân loại; nhưng buồn thay, hơn hai ngàn năm qua con người chẳng có hòa bình. Họ dùng chiến tranh để giải quyết những bất đồng, tranh chấp gây tang tóc, đau thương cho nhau. Những đóm hỏa châu của bom đạn hận thù đã che khuất tinh tú và các vì sao trên trời. Nhân loại đang bước đi trong tăm tối không thấy Ánh Sáng.

 

Năm nay, tại Bét-la-hem nơi mà Ta sinh ra, mọi sinh hoạt Giáng sinh đều dừng hoạt động. Tại miền đất nơi Con Thiên Chúa giáng sinh năm xưa, người ta đã làm một hang đá giữa đống gạch vụn đổ nát của chiến tranh, và đặt Ta nằm trong máng cỏ ở đó. Ta cảm thông những đau khổ mà dân lành đang phải gánh chịu vì chiến tranh. 

 

Thế giới hôm nay đang cố gắng lấy tên và hình ảnh của Ta ra khỏi mùa lễ vì họ muốn thuộc về thế gian như lời Kinh Thánh đã viết: “Người đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”. Giáng sinh dần dần không còn là ngày thánh thiêng để mừng kính sinh nhật của Ta mà là ngày hội của mua sắm và thương mại. Con người đang mất niềm tin vào Vị cứu tinh mà năm xưa cha ông của họ đã mòn mỏi chờ mong. Họ mau quên, vô ơn bạc nghĩa chằng khác gì 10 người phong cùi được chữa khỏi mà chỉ có 1 người quay trở lại tạ ơn Thiên Chúa. Họ đến cầu cứu Ta khi xảy ra biến cố khủng bố khiến hai tòa nhà sụp đổ vào ngày 11 tháng 9. Họ than khóc ăn năn kêu cứu tới Ta khi đại dịch Covid lấy đi bao sinh mạng con người. Rồi những thiên tai kinh hoàng liên tục của sóng thần, cháy rừng, lụt lội, bão tố… là những dấu chỉ thời gian để họ tỉnh thức mà nhận ra ai có quyền trên sóng gió bão táp, ai có thể cứu họ, nhưng cũng chỉ hiệu lực trong thời gian ngắn ngủi, và đâu lại vào đó. 

 

Hỡi các con bé nhỏ, 

Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời. Đừng để khi ông Noe vào tàu và trời trút cơn mưa mới sám hối ăn năn. Hãy vững tin vào Ta vì Ta là Thiên Chúa của lòng nhân từ thương xót. Nếu các con muốn tặng Ta một món quà để tưởng nhớ ngày sinh nhật của Ta thì đây là danh sách niềm mong ước mùa Giáng Sinh của Ta. Các con chọn một hành động nào đó như thể sẽ mang một cọng rơm đến máng cỏ sưởi ấm cho Ta giữa mùa đông giá rét nơi trái tim con người.

 

1- Hãy là sứ giả của hòa bình qua việc làm hòa với anh em của mình. Ba vị vua phương đông đi tìm kiếm Ta, họ có trái tim hiệp nhất và hiệp hành với nhau. Họ cùng chung một cái nhìn để nhận ra một ánh sao dẫn đường tới hang Bêlem.

2- Hãy tìm kiếm Ta ở nơi những người anh chị em nghèo khổ, cô đơn, bệnh tật vì Ta không sinh ra trong nhung lụa gấm vóc.

3- Hãy thăm viếng Ta nơi các nhà thương, viện dưỡng lão, viện mồ côi, nhà tù… vì tại đây những ánh mắt mỏi mòn đợi mong và tâm hồn héo hắt đang khát khao.

4- Hãy cho nhau món quà không mất tiền mua là thời gian và nụ cười. Đừng chọn Iphone là thế giới riêng của mình.

5- Hãy cho nhau tình thương vì nó sẽ được ghi nhớ mãi trong tim và là món quà ngàn năm không phai nhòa của người ở lại.

6- Hãy có lòng biết ơn vì các con nhận lành mọi sự nhưng không từ Thiên Chúa ban cho và là người quản lý trung tín.

7- Hãy cho đi vì cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh. Cho đi là các con đang đầu tư khôn ngoan nhất vào kho tàng không bao giờ mục nát và hư mất.


Đó là niềm mơ ước Giáng sinh của Ta và Ta đặt niềm mơ ước ấy trọn vẹn nơi trái tim và đôi bàn tay của các con. Ta cảm ơn các con và ân sủng cùng phúc lành Giáng sinh của Ta luôn ở cùng các con.


Thương yêu mãi mãi,

Giêsu

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2023

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam


Kính lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam


Chúng con thật hãnh diện vì đức tin sáng ngời của các ngài trước biết bao cuộc bách hại bạo tàn. Gông cùm, đòn roi và án tử đã trở nên con đường để các ngài cùng Chúa Giêsu tiến lên đồi Canvê. Dòng máu tình yêu của các ngài đã tưới gội cho hạt mầm đức tin của lớp lớp con cháu được lớn mạnh trên quê hương Việt Nam con rồng cháu tiên. Chúng con lắng nghe bài ca tán dương Thiên Chúa mà các ngài đã cất lên bằng chính sự sống của mình; để rồi các ngài được phúc hiển vinh trong hàng ngũ các thánh. Chúng con xin viết lên đôi chút tâm tình để tỏ bày lòng ngưỡng mộ của hậu bối kính dâng lên các ngài.


Những trang sử hào hùng của các vị tử đạo được viết nên bằng giá máu đã giúp chúng con chiêm ngắm đức tin kiên vững và tình yêu mãnh liệt mà các ngài dành cho Thiên Chúa. Nhắc lại năm tháng bách đạo trên quê hương không phải để oán hờn hay gieo hận cho hậu thế, nhưng là cơ hội để chúng con nhìn đến ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa rực cháy trên pháp trường năm xưa. Thuở ấy, người ta bài xích đạo Đức Chúa Trời vì cho đó là con đường sai lạc, đạo của người nước ngoài, của kẻ phản quốc.


Từ đó bao thế lực tra tay bách bớ, tiêu diệt các tín hữu một lòng tín trung với chính Đạo. Lời Chúa Giêsu đã khắc sâu trong trái tim các ngài: “vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em”. Vâng, Thầy Giêsu đã chọn các ngài. Vì các ngài đã đáp lại tiếng gọi của Thầy Chí Thánh nên thế gian đã oán ghét rồi loại trừ các ngài. Bản án cuối cùng dành cho những con người yêu mến Thiên Chúa là đầu rơi máu chảy. Nhưng phần thưởng sau cùng dành cho những ai trung kiên chọn Chúa là phần phúc hiển vinh.


Quả vậy, những giọt máu các ngài năm xưa thấm đẫm mảnh đất hình chữ S từ nam chí bắc. Chắc hẳn người ta không ngờ rằng: càng truy lùng, tra tấn và hành quyết các ngài, tình yêu và lòng nhiệt thành làm chứng cho Thiên Chúa lại càng bùng cháy nơi lớp lớp anh hùng tử đạo. Chính ngọn lửa ấy đã thắp sáng, đang sưởi ấm cho mọi thế hệ con cháu chúng con. Hôm nay đây, nhờ ánh sáng huy hoàng của lửa mến các ngài phản chiếu, Thiên Chúa đang cho cánh đồng lúa trên quê hương chúng con trổ bông dâng tràn sức sống.


Lật lại những trang sử một thời vang bóng của các ngài, chúng con kính phục và tri ân tất cả những bậc cha ông đã một lòng với Thiên Chúa và hết mực với quê hương. Chúng con lắng nghe lời vang vọng của các ngài bày tỏ: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được.”


Thiên Chúa không dạy ghét bỏ tha nhân, không xúi phản lại Đất Nước. Phải chăng định mệnh của thời cuộc đã đẩy đưa tới những cuộc bách hại khốc liệt để loại trừ những tín hữu vốn hiền hoà dễ mến. Nơi đó, người con Chúa lại lấy đức tin, lời cầu nguyện và đức bác ái để bày tỏ tình yêu của mình với Thiên Chúa và Quê Hương. Chúng con còn nhớ thánh Trần Văn Trung khẳng khái tuyên bố: “Là công dân Việt Nam, tôi sẵn sàng đi đánh giặc bảo vệ tổ quốc. Nhưng tôi không bao giờ đạp lên Thánh giá bỏ đạo chối Chúa, vì tôi là con dân của Chúa”.


Là công dân, chúng con quyết một lòng yêu thương giống nòi và gìn giữ non sông gấm vóc; là môn đệ Chúa, chúng con nhiệt thành tin yêu và phụng sự Chúa trót cuộc đời. Đó là hai mặt của tình yêu mà chúng con luôn bắt chước các ngài trong lúc gian nguy bách hại, bổn phận làm chứng cho Chúa phải được dặt lên hàng đầu. Xin các ngài chuyển cầu giúp chúng con tiếp tục thể hiện tấm lòng trung tín keo sơn với Thiên Chúa và tổ quốc thân yêu của mình.


Tin yêu Thiên Chúa trong lòng dân tộc, các ngài xả thân theo tiếng gọi của Thầy Giêsu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” Nhìn lại ba thế kỷ năm xưa, chúng con xúc động vì dòng máu các Ngài gieo vào lòng đất; để từ đó, Lời đơm hoa kết trái trên quê hương Đất Việt. Đó là nguồn sức mạnh giúp các ngài phản chiếu một lòng hân hoan bước theo con đường hẹp của Thầy Chí Thánh. Con đường hẹp với tình yêu lớn đã giúp các ngài chịu được sức nặng của gông cùm, tra tấn và đã tử đạo trên pháp trường năm xưa. Ước gì chúng con cũng can đảm từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy Giêsu.


Là thế hệ con cháu của các bậc tiền nhân son sắt một lòng với Thiên Chúa, chúng con cũng nguyện một lòng cùng với Chúa Giêsu gieo mình vào Đất Việt. Chính tình yêu Thiên Chúa đã làm cho trái tim chúng con không bao giờ mục nát, cánh hoa cuộc đời chúng con chưa một lần úa tàn, những ánh sao không bao giờ lịm tắt, những người con Chúa sống mãi không thôi. Đó là những lời nhắn nhủ của Á Thánh tiên khởi Anrê Phú Yên dành cho hậu thế chúng con. Chắc hẳn các Ngài cũng muốn chúng con dệt tiếp trang sử mến Chúa yêu người, dấn bước dựng xây quê hương trong tinh thần hăng say của người Loan báo tin mừng cho con dân Đất Việt!


Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin giúp chúng con một lòng tin yêu Thiên Chúa, hết mực xây dựng Quê Hương – một Việt Nam công bình, tự do và nhân bản.  


Mừng lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam


Giuse Phạm Đình Ngọc SJ


Thứ Năm, 2 tháng 11, 2023

Sự Sống Đời Sau


Hai chữ “đời sau” là có ý muốn nói đến “sau cái chết”. Người ta tin rằng sau khi chết đi, mình vẫn còn sống theo một cách thức nào đó, chỉ có điều, sự sống ấy như thế nào, giống và khác với sự sống mà ta đang thụ hưởng ra sao, thì chẳng ai biết được cả. Dù không biết chính xác, nhưng trong tận thâm tâm, người ta tin là nó sẽ tuyệt vời hơn bây giờ rất nhiều, rằng “người đã chết” ấy hiện diện trong một trạng thái thuần linh, “người đó” có thể nhìn thấy chúng ta, nghe biết và chứng kiến mọi chuyện đang diễn ra trong thế giới này. Thậm chí, người ta còn tin rằng, “người đã chết”, vì không còn bị kìm kẹp bởi vật chất nữa, nên “thần thông quảng đại” hơn, có thể làm được nhiều điều mà chúng ta không thể làm được. Đó là lý do vì sao chúng ta thường dành một sự cung kính cho người quá cố, chúng ta thắp cho họ nén hương, khấn vái, cầu khẩn… Nhiều người còn dâng cúng đồ ăn thức uống, trò chuyện với người đã khuất.


Ở đây, ta tạm thời không bàn đến những tranh luận và suy tư triết học cũng như thần học, nhưng hãy cùng tìm hiểu xem “ý niệm về sự sống đời sau” muốn nói với chúng ta điều gì.


Nhiều người chắp nối “đời sau” với “đời này” như một kiểu nhân quả. Đời này sống tốt thì đời sau sẽ được hưởng phúc; đời này làm nhiều điều gian ác thì đời sau sẽ chịu khổ gấp trăm ngàn lần. Ở “đời sau”, người ta sẽ hưởng hoặc gánh chịu cái mà người ta làm ở “đời này”. Lối suy nghĩ này cổ võ người ta cố gắng “làm lành lánh dữ”, tích nhiều phúc đức qua các việc bác ái, để có thể được “báo đáp” ở đời sau. Có thể có một kiểu hưởng phúc hay hình phạt nào đó mà ta không thể biết và tưởng tượng được. Những hình ảnh như linh hồn bơ vơ vất vưởng hay những ngục tù đầy rắn rết, tối tăm, lạnh lẽo, những ngọn lửa bạo tàn, hay một chốn bồng lai tiên cảnh, nơi người ta hưởng trạng thái tiêu diêu… có lẽ là những phóng chiếu của ta từ kinh nghiệm của cuộc sống này, dựa trên lối quan niệm nhân-quả ấy. Nhưng dẫu sao, khi nghĩ đến “đời sau”, ta cảm thấy được mời gọi không quá bám víu vào những vật chất ở đời này, thấy được mời gọi để mở lòng mình ra hơn, để trao ban bình thương, đón nhận tình mến. Ý thức về đời sau làm cho ta thấy sự ích kỷ, ghen ghét, mưu toan… thật nhỏ bé và tầm thường quá đỗi. Đời sau đích thực là một đời sống ở tầm cao, ở cái hướng thượng, cái siêu việt, với những giá trị trỗi vượt.


Cũng có người nhìn về “đời sau” trong sự đối lập với “đời này”. Họ cho rằng đời này đầy những khổ đau, còn đời sau là bến bờ hạnh phúc. Họ ráng gắng gượng sống cho qua kiếp này, mong chờ cái chết đến thật nhanh để kết thúc những mệt mỏi và để được hưởng sự an nhiên vô lo. Có lẽ do bị quá nhiều tai ương ập đến, những người ấy coi đời này như địa ngục, hay như một chốn đoạ đày. Không thấy được giá trị của sự sống nên họ cứ vật vờ như cọng cỏ chờ gió cuốn đi. Họ chỉ tồn tại đó thôi, chứ chẳng có gì gọi là sống cả. Có những người bi quan hơn, vội vàng tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Niềm tin Kitô giáo cảm thông với những ai đang rơi vào tình cảnh khó khăn tuyệt vọng, nhưng không bao giờ đồng tình với lối suy nghĩ này. Đã đành, sống trong kiếp người thì phải đối diện với những nhiều không mong muốn, nhưng đời này vẫn luôn có một giá trị của nó. Sẽ chẳng thể nào nếm được hạnh phúc đời sau, khi người ta không bắt đầu từ cuộc sống này. Có thể nói, đời này và đời sau không tách biệt nhau, nhưng hoà quyện và nối kết với nhau rất bền chặt. Mọi phần thưởng và hình phạt đã manh nha cách nào đó ngay trong đời sống này rồi. Ta không biết gì về đời sau, nhưng ta hoàn toàn chắc chắn rằng có một cuộc sống ở đời này và nếu không sống nó một cách đầy nhiệt huyết và năng lượng, ta đã hoang phí ơn trời và tự huỷ diệt sự sống mà ta đang thụ hưởng.


“Sự sống đời sau” gợi lên trong chúng ta cảm thức một sự linh thiêng nào đó hiện diện nơi đời sống của con người. Có một thực tại nào đó bao trùm tất cả mọi hiện hữu, mà cái thế giới hữu hình của chúng ta chỉ là một chấm nhỏ. Con người luôn thấy trước mặt mình những mầu nhiệm cao cả vô cùng, nơi đó, họ ý thức được rằng dù họ có giàu sang, quyền lực thế nào, họ cũng chỉ như hạt cát nơi sa mạc. Con người được huyền nhiệm ấy bao trùm lấy mình, để rồi, họ nhận thấy mình cũng là cái gì đó rất linh thiêng và cao cả, vượt trên những giới hạn của bản thân. Ý thức về cái chết giúp cho con người biết rằng ai trong chúng ta cũng đều phải mang một chữ “phận”, phải vâng lời tiếng gọi của Siêu nhiên. Và dù có kinh hãi trước cái chết, con người vẫn có thể khảng khái đối diện với nó vì tin rằng đằng sau nó, vẫn còn cái gì đó khác chào đón mình. Cái chết là bức tường ngăn cản giữa hữu hình và vô hình. Nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolo, mọi sự xuất hiện trước mắt ta ở đời này chỉ mờ mờ ảo ảo như nhìn thấy cái gì đó trong tấm gương. Bước qua cái chết, người ta sẽ được chiêm ngưỡng mọi sự như thực tế nó là, với tất cả mọi nét hoàn mỹ và tuyệt đẹp. “Sự sống đời sau” mang đến cho chúng ta một sức mạnh và một niềm hy vọng về sự bất tử của chính mình, trọn vẹn con người mình, chứ không phải chỉ là một phần nào đó của mình.


Khi trực giác về một sự sống bất tử ở đời sau, ta đồng thời cũng được mặc khải cho biết về phẩm giá tuyệt hảo của chính mình. Ta được mời gọi để sống thanh cao, sống những giá trị vượt trên những tầm thường nhỏ nhen. Thật ra, ta đã có thể bắt đầu sự sống đời sau với nhiều hạnh phúc qua từng cái chết nho nhỏ nơi cuộc sống này: chết đi cho cái tôi ích kỷ, chết đi cho những kiêu ngạo, chết đi qua những hy sinh… Thật lạ kỳ: giá trị của cuộc sống hệ tại ở những cái chết như thế; càng chết đi, ta lại càng cảm thấy mình sống cách sung mãn hơn, và sự sống đời sau bắt đầu hình thành từ giây phút ấy.

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

 

Ý nghĩa của ngày mừng lễ các thánh


 Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Chỉ một mình Thiên Chúa xứng đáng với danh hiệu “Thánh-Thánh-Chí Thánh”. Sự thánh thiện xuất phát từ Thiên Chúa, nguồn mạch của mọi sự tốt lành và thiện hảo. Nhưng vì lòng thương xót bao la, Ngài đã rộng rãi thông ban sự thánh thiện của mình cho con người, để những ai, sau khi đã trải qua một thời gian dài thanh luyện với đủ những thử thách cũng có thể thông phần vào sự thánh thiện đó và được gọi là “thánh”.

 

Trong hành trình cuộc sống, chúng ta gặp không ít các hạng người khác nhau. Có những người mang đến cho chúng ta biết bao rắc rối khiến chúng ta mệt mỏi; có những người xuất hiện trong cuộc hiện hữu của chúng ta mà chẳng để lại một chút ký ức gì; nhưng cũng có những người thật sự đã in đậm trong trái tim của chúng ta một ấn tượng không phai bởi cung cách sống tốt đẹp và lối hành xử phi thường. Nơi họ toát lên một nét siêu thoát đến lạ lùng. Họ an nhiên, tự tại, thảnh thơi. Vẫn mang trên mình thân xác đầy yếu đuối và mỏng dòn, nhưng họ làm ta có cảm giác như thể họ đang sống giữa Thiên Đàng đầy hạnh phúc. Không một khó khăn nào làm họ nản chí. Không một đau khổ nào có thể lấy đi khỏi họ sự thanh tao, lạc quan và yêu đời. Những người như thế, chúng ta gọi là “thánh”. Họ đích thực đã sống sự sống của Thiên Chúa, họ được Ngài cho thông dự vào sự thánh thiện của Ngài.

 

Trong suốt năm phụng vụ, hầu như ngày nào chúng ta cũng mừng một vị thánh nào đó. Có những vị thánh rất nổi tiếng. Cũng có những vị thánh xa lạ hơn với chúng ta. Ấy vậy mà cũng không thể mừng hết số lượng đông đảo các ngài. Đó là chưa kể đến những vị mà nhân đức anh hùng của họ chưa được Giáo Hội biết đến và tôn vinh. Vì thế, Giáo Hội đã dành ngày 1.11 hàng năm để kính nhớ toàn thể các thánh trên trời, chúc mừng họ, vì họ đã khải hoàn chiến thắng một cách oanh liệt trong cuộc chiến với ma quỷ, đã chà đạp chúng bằng niềm tin vào Đức Kitô. Trong số đó, biết đâu có cả ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân của chúng ta mà chúng ta không hề biết.

 

Sách Khải Huyền cho chúng ta biết rằng, họ là “đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7,9). Quả vậy, không sao có thể kể hết sự phong phú trong cộng đoàn các thánh. Sự phong phú này về giới tính, trình độ học vấn, quốc gia, nghề nghiệp, vai trò trong xã hội, bậc sống… cho chúng ta một ấn tượng rằng lời mời gọi nên thánh là dành cho tất cả mọi người (như công đồng Vaticano II khẳng định). Thiên Chúa thông ban sự thánh thiện của mình cho tất cả mọi người và bất cứ ai cũng có thể được tham dự vào sự thánh thiện đó bằng những nỗ lực và dấn thân của mình.

 

Chúng ta biết đến các thánh được gọi là tiến sĩ Hội Thánh, họ có những tư tưởng thần học xuất sắc, giúp bảo vệ, khai sáng và truyền bá đức tin tinh tuyền. Cũng có những vị thánh được gọi là tử đạo, những người đã dùng mạng sống của mình để chứng minh tình yêu của mình dành cho Chúa Kitô. Có các thánh là những giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, những người đã hiến thân cuộc đời mình như của lễ tinh tuyền dâng lên Chúa, được diễn tả qua việc sống đời chiêm niệm hoặc dấn thân phục vụ cộng đoàn dân Chúa như dấu chỉ của Nước Trời. Có các thánh đã cao niên và cũng có các thánh vẫn còn rất trẻ. Có những vị thánh xuất thân thấp hèn, thuộc giới nô lệ hay lao động chân tay, cũng có những vị vốn là dòng dõi vua chúa, có trong tay mọi của cải và quyền lực nhưng sẵn sàng coi chúng như là “rác so với mối lợi tuyệt vời là biết Đức Kitô” (x.Pl 3,8). Có những vị thánh suốt ngày bôn ba trên khắp các nẻo đường gian khổ để rao giảng Tin Mừng, và cũng có những người là bố, là mẹ trong gia đình với mối bận tâm là giáo dục con cái và biến gia đình nhỏ bé của mình thành một tổ ấm yêu thương…

 

Dù đông đảo và phong phú như thế, nhưng tất cả các thánh đều có một điểm chung: họ đã sống các mối phúc mà Chúa Giêsu đã dạy một cách phi thường. Một tài liệu cổ xưa gọi họ là những người “sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian; chân còn chạm đất, nhưng lòng luôn hướng về trời”. Họ là những người “sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng (Tv 14), “những cô trinh nữ khôn ngoan” (Mt 25,1-13), là những người đã luôn làm lời những nén bạc Chúa trao (x.Mt 25,14-30), những người đứng bên phải Nhà Vua trong ngày phán xét vì đã thực thi lòng bác ái với những người đói rách, bệnh tật, bị bỏ rơi (x.Mt 25,31-46)… Họ là những người luôn tín thác vào Chúa, dành cho Chúa chỗ nhất trong trái tim, đi theo Chúa trên chặng đường thập giá đến phút cuối cùng. Trong số các vị thánh, có rất nhiều vị đã từng chối Chúa, theo lạc giáo, phạm nhiều tội nặng, nhưng nhờ tin vào lòng thương xót của Chúa, họ quay lại, đứng lên và làm lại cuộc đời. Những vị này thật đáng cho chúng ta kính ngưỡng.

 

Nhiều người cho rằng một vị thánh nhân thường có lối sống lạ đời, rằng họ chẳng có trải nghiệm gì về những điều trần thế, họ phải bỏ đi hết mọi thú vui và cuộc sống của họ thật nhàm chán; cung cách sống của họ, do khác với người khác, nên biến họ trở thành những người lạc lõng giữa thế gian. Nghĩ đến một sự buông bỏ triệt để, người ta sợ và không muốn làm thánh; họ hài lòng với một cuộc sống “lưng chừng”, không làm hại ai để mang tiếng xấu, nhưng cũng không cần phải quá tốt để làm thiệt hại cho bản thân. Đối với họ, cuộc sống cứ trôi qua nhẹ nhàng, không tai ương, không bệnh tật… vậy là đủ rồi. Cái danh hiệu “thánh nhân”, họ không dám mơ tới và cũng không phải là mục tiêu của cuộc đời họ.

 

Có lẽ, ở một phương diện nào đó, các thánh cũng có một sự “lẻ loi” trong cuộc sống khi họ không sống và hành xử theo thói đời. Họ thậm chí có thể bị người khác dè bĩu vì sự “quá tốt bụng” của mình. Tại sao phải “dành phần hơn cho người khác” (Pl 2,3)? Tại sao phải tha thứ, chứ không phải trả thù? Tại sao không dùng “miếng trả miếng” cho hả cơn giận và trút bỏ những ấm ức, mà lại chọn nhẫn nhịn và bỏ qua? Tại sao không tranh giành để thủ đắc thật nhiều của cải cho bản thân mà lại sẵn sàng cho đi? Tại sao phải lấy niềm vui của người khác làm niềm vui của mình? Tại sao phải cảm thấy nhói lòng và thấy mình phải làm cái gì đó khi người khác không có cái ăn, cái mặc, chịu những giá lạnh trời đông?…

 

Các thánh khác chúng ta vì họ nhìn thực tại sâu hơn và xa hơn, với lòng trắc ẩn và bác ái chứ không phải vì thước đo lợi ích. Họ đụng chạm được đến chiều kích thần thánh nằm ngay tận cốt lõi của ơn gọi làm người, đó là lòng thương xót, tình yêu thương. Họ nghiệm được giá trị cao quý của nó và họ hiện thực hoá nó trong cuộc sống của mình. Họ không chê bỏ những niềm vui chính đáng của đời này, nhưng họ chọn và tìm kiếm niềm vui mang tính vĩnh hằng hơn. Hành trình tiến đến sự vĩnh hằng đó, là hành trình đi vào trong sự thánh thiện của Chúa và hệ quả tất yếu của nó chính là sự lạc quan, niềm hạnh phúc, sự bình an sâu thẳm. Chúng thấm vào trong các vị thánh và toả ra bên ngoài như cành hoa thơm. Một vị thánh chính là một con người đúng nghĩa, loài được dựng nên “theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa” (St 1,26).

 

Các vị thánh đã thật sự gạt bỏ được mọi dính bén hồng trần, nên chẳng quan tâm đến chuyện mình được tôn vinh hay không. Chẳng một vị thánh đích thực nào lại đi tìm kiếm sự thừa nhận từ người khác. Việc Giáo hội tôn vinh một vị thánh hay mời gọi chúng ta kính nhớ các ngài trong suốt năm phụng vụ, hay trong thánh lễ ngày 1.11, một mặt, để chúng ta cùng với các ngài tạ ơn Chúa vì Ngài đã cho phép và tạo điều kiện để con người chúng ta được thông dự vào sự thánh thiện của ngài; mặt khác, để chúng ta biết rằng việc nên thánh là điều có thể (mà các thánh là những chứng nhân rõ ràng nhất), đồng thời, để nhắc nhớ chúng ta rằng giữa trăm ngàn thử thách của cuộc sống và những cạm bẫy mà kẻ thù gây ra, chúng ta có hằng hà sa số các thánh thường xuyên và sẵn sàng chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta như thể được bao bọc bởi ân sủng của Chúa nhờ các ngài. Mỗi một người chúng ta, tuỳ theo bối cảnh gia đình, xã hội, tính cách… đều có thể tìm thấy cho mình một mẫu gương để noi theo nơi một hay một vài vị thánh nào đó mà Chúa ban cho Giáo hội.

 

Như một truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội, mỗi chúng ta đều có một vị thánh bổn mạng, người mà chúng ta nhận là đấng bảo trợ trong suốt hành trình dương gian của mình. Vị thánh ấy hằng theo bước chúng ta, nâng đỡ chúng ta, chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta và đang chờ đợi chúng ta cùng gia nhập cộng đoàn của những người chiến thắng trên Thiên Đàng. Hãy nhớ đến vị thánh ấy, cầu nguyện với ngài và cố gắng noi gương nhân đức của ngài. Như thế, việc mừng lễ các thánh hôm nay, như lời thánh Bernardo nói, không phải vì các ngài mà là vì chúng ta, vì khi nhớ đến các ngài, chúng ta như được thêm sức mạnh và hy vọng để tiếp tục nỗ lực phấn đấu, hầu mai sau cũng sẽ được dự phần Thiên Quốc như các ngài.

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Thứ Ba, 15 tháng 8, 2023

Thư Gửi Mẹ Lên Trời

Mẹ Maria kính yêu, 


Việc Mẹ được đặc ân lên trời cả hồn và xác là biến cố trọng đại và ý nghĩa cho toàn thể nhân loại. Trọng đại vì đó là phần thưởng tuyệt hảo mà Thiên Chúa đã dành riêng cho Mẹ; ý nghĩa vì Mẹ là người khởi đầu của Hội Thánh viên mãn, là niềm vui và hy vọng lớn lao cho dân thánh trong cuộc lữ thứ trần gian. Trên quê trời, Mẹ tiếp tục mời gọi chúng con bước theo Thầy Giêsu để mai này chúng con cũng được cùng Mẹ hưởng niềm vui Thiên quốc. Hôm nay (15/08) cả Giáo Hội chung chia niềm vui này với Mẹ để tán dương Thiên Chúa!


Còn nhớ ngày sứ thần truyền tin, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” để trở thành Mẹ Thiên Chúa. Mẹ chấp nhận thánh ý để cùng với Con của Mẹ lao tác trong chương trình cứu độ. Chiêm ngắm hành trình Mẹ theo chân Thầy Giêsu, Con Mẹ, ai ai cũng nhận ra tình yêu và lòng tín thác tuyệt đối mà Mẹ dành cho Thiên Chúa. Đúng như lời hát du dương của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi!” Không vui mừng hớn hở sao được bởi Mẹ thật diễm phúc vì hoa trái trong lòng Mẹ là Đấng cứu độ trần gian. Cả cuộc đời, Mẹ luôn ngân nga tiếng hát ấy với niềm vui thiêng liêng và lòng xác tín thẳm sâu!

Trên dương thế, Mẹ chẳng xa rời Đức Giêsu. Mẹ và Thầy Giêsu như hình với bóng. Lúc nào Mẹ cũng quảng đại cộng tác trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói Mẹ là đóa hoa hướng dương luôn hướng về ánh Mặt Trời. Đóa hoa ấy luôn đầy tràn ân phúc vì Đức Chúa ở cùng Mẹ. Nhờ đó, Thiên Chúa ban cho Mẹ vô nhiễm khi hoài thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm mẹ và ơn thăng thiên cả xác lẫn hồn. Mẹ cũng được gìn giữ khỏi bị hư nát trong mồ giống như Con của Mẹ. Chúng con hãnh diện lắm, mừng vui lắm khi Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác! Giờ đây Mẹ biết không, chúng con sung sướng chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ chuyển cầu cho chúng con trước nhan thánh Chúa.


Mẹ ơi! Đã từ lâu Giáo Hội có những thánh lễ nói về giây phút chấm dứt cuộc đời dương thế của Mẹ đấy. Mừng với Mẹ vì ai cũng tin rằng lần ra đi của Mẹ phải tốt đẹp, không chút đớn đau. Rồi dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, ngày 1/11/1950, Đức Piô XII long trọng tuyên bố: “Đức Maria, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác.” Mẹ ơi, Ngài còn nói với chúng con rằng: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái Tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ.” (“Corporis Mystici”, 29-6-1943).


Trái tim hiền mẫu của Mẹ luôn ước mong từng người con hãy tin yêu Chúa Giêsu. Mẹ cầu mong chúng con cũng được hưởng niềm vui Thiên Quốc như Mẹ. Ước gì chúng con luôn được ở trong Trái Tim nhân hiền của Mẹ. Mẹ ơi! Chúng con tin rằng thân xác sẽ sống lại trong ngày sau hết. Nếu tin yêu Chúa Giêsu Kitô, chúng con chắc chắn sẽ được sự sống đời đời, Mẹ nhỉ! Khi ấy, Mẹ-con mình sẽ trùng phùng vui sướng, hạnh phúc vô bờ! Hơn nữa, khi chiêm ngắm Mẹ lên trời cả hồn và xác, chúng con còn xác tín rằng: thân xác sẽ được cứu độ. Cho dẫu cuộc sống gian trần còn nhiều khổ đau thân xác và tâm hồn, nhưng nhờ Mẹ, chúng con sẽ được Thiên Chúa nhận lời đưa vào cuộc sống vĩnh hằng, thưa Mẹ!


Sau cùng, chúng con muốn cùng với Mẹ dâng lời “Ngợi khen” Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa, … Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” Chính Người đã ban cho Mẹ nên Hiền mẫu tuyệt vời trên dương thế, nên Đức Mẹ rạng ngời trên Thiên quốc. Hôm nay và ở đây, Mẹ vẫn đang hát vang bài ca ấy để cầu mong từng người con dù sống dưới trần gian, nhưng hãy hướng tâm trí về Quê Trời. Nơi ấy Mẹ đang vẫy gọi và cầu nguyện cho mỗi người chúng con!


Lạy Mẹ Maria, trên Thiên quốc, xin Mẹ đoái nhìn đến cuộc sống lữ hành của chúng con. Xin Mẹ nhắc nhớ chúng con đừng quá mê man với cuộc sống chóng qua mà quên mất thực tại Nước Trời. Bên ngai tòa Thiên Chúa, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có sức mạnh thần linh để chúng con một lòng tin yêu Thiên Chúa. Được như thế, chắc chắn chúng con sẽ gặp được Mẹ, để Mẹ dẫn chúng con đến hưởng nhan thánh Chúa. Amen.


Chúc mừng đặc ân Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn và xác!


Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2023

Em bé Gioan: Tẩy giả và Tiền hô


Bé Gioan đi vào cuộc đời theo một cách thế chẳng giống ai! Nhưng đó lại là đường lối của Thiên Chúa. Đến nỗi có lần Thầy Giêsu nói: trong số những người sinh ra từ lòng mẹ, chẳng có ai cao trọng hơn Gioan. Cả cuộc đời Gioan chỉ làm có hai việc. Thứ nhất là kêu gọi mọi người sám hối với phép rửa trong nước, vì thế mà Gioan được gọi là Tẩy Giả. Thứ hai là đi trước để giới thiệu Đấng Cứu Độ cho dân Chúa, vì thế mà Gioan được gọi là Tiền Hô. Chẳng phải khi đã lớn Gioan mới thực thi sứ mạng của mình, mà ngay từ khi bé tí, ngay từ khi chưa sinh ra, Thiên Chúa đã mời gọi Gioan với tiếng gọi đặc biệt.


Cha mẹ của bé Gioan phải sống trong cảnh dở khóc dở cười gần hết cuộc đời. Cười là vì ông bà rất yêu thương nhau, là vì ông bà sống công chính trước mặt Chúa, là vì người ta không chê trách ông bà được điều gì. Khóc là vì ông bà đã già và vẫn không có con, là vì ông bà phải chịu nỗi hổ nhục trước mặt người đời về điều này, là vì dường như Thiên Chúa không nghe lời ông bà hoặc ngay cả dường như ông bà là người “vô phúc” trước mặt Chúa. Ôi! Để đón nhận được phúc lành từ Chúa, con người phải khiêm tốn và kiên nhẫn quá nhiều! Hay nói ngược lại có lẽ cũng đúng: để Chúa có thể ban tặng cho con người một ơn phúc, Ngài phải kiên nhẫn và bận tâm rất nhiều, phải chuẩn bị rất nhiều!


Mong đợi cả đời, cầu nguyện cả đời để có một mụn con, thế mà khi sứ thần báo tin cho Dacaria, ông quá bối rối và không tin nổi tin vui mình vừa nghe. Tên gọi Gioan không phải do cha mẹ chọn, mà là do chính Thiên Chúa chọn và sứ thần loan báo. Sứ mạng Gioan thực thi cũng không phải do cha mẹ ước mong hay do Gioan tự chọn, mà do Thiên Chúa đặt để và sai đi. Người cha Dacaria, một vị tư tế công chính với cả đời cầu nguyện, tưởng chừng có lòng tin lớn lắm. Nhưng không! Ông cần có bằng chứng để có thể tin. Lòng tin của con người nhỏ bé là thế! Ông muốn có bằng chứng, bằng chứng là ông sẽ bị câm cho tới khi tin vui về bé Gioan thành sự. Có lẽ để tin Thiên Chúa, thay vì nói nhiều xin nhiều, con người cần lặng thinh và lắng nghe nhiều hơn. Dân chúng chẳng biết điều gì xảy ra với Dacaria, chỉ biết rằng có điều gì đó lạ thường.


Lời Thiên Chúa hứa bắt đầu có hiệu lực, bà Elisabet nhận thấy mầm sống trong lòng mình lớn lên, lớn lên. Chẳng thể diễn tả được niềm vui lớn tới cỡ nào của người phụ nữ chờ đợi cả đời để được làm mẹ! Một niềm vui không còn ồn ào như người mẹ trẻ, mà rất sâu lắng và thấm thía, vì đã đợi cả cuộc đời. Bà chỉ tự nhủ với lòng về tình thương lớn lao Chúa dành cho bà. Còn với dân làng, bà chẳng nói chẳng rằng mà ẩn mình trong 5 tháng trời. Nếu bà có nói với người ta lúc này, có lẽ họ chỉ thêm chê cười bà mà thôi.


Trong những người dân làng, chẳng phải ai cũng chê cười bà, Thiên Chúa luôn có những người bạn của Ngài trong dân, cho dù số những người bạn này thường là ít ỏi. Có người nghe được tiếng của Chúa và tin lời Ngài, đó là chị Maria. Chị không chỉ tin vào lời sứ thần nói cho mình, mà chị còn tin vào lời sứ thần nói về người chị họ Elisabet. Chị lên đường đến thăm bà Elisabet và ở lại chăm sóc bà.


Cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con trong dạ. Với con mắt đời thường, hai người mẹ chỉ thấy nhau là người họ hàng bà con. Trong con mắt của lòng tin, hai người vui mừng khôn xiết vì nhận thấy tình thương lớn lao Chúa dành cho mình. Còn hơn thế nữa, người con trong lòng Mẹ Maria là chính Con Thiên Chúa, và nhờ Người Con này mà em bé Gioan nhảy mừng. Từ sự vui sướng của em bé Gioan mà bà Elisabet nhận được tin mừng vĩ đại về Đấng Cứu Thế, về niềm vui thăm viếng từ “Thân Mẫu Chúa tôi”.


Đến ngày em bé Gioan chào đời, láng giềng nhận thấy tình thương Chúa dành cho bà, họ đến chia vui. Người ta thường chỉ bắt đầu tin, khi đã thấy rõ kết quả! Thế mà tới lúc này, ông Dacaria vẫn lặng thinh, vẫn chưa mở miệng. Có lẽ ông còn nửa tin nửa ngờ! Cho tới 8 ngày sau là ngày làm phép cắt bì, dân chúng thì nại vào tập tục để đặt tên, còn ông Dacaria thì can đảm tin vào Thiên Chúa để đặt người con của ông vào hành trình mà Chúa mời gọi. Khi tên Gioan được đặt cho em bé, thì tin vui mới tròn đầy, niềm tin nơi người cha Dacaria mới đủ lớn để ông cất lời ca tụng Thiên Chúa. Lúc này người dân kinh sợ.


Qua em bé Gioan, Chúa đã hoán cải lòng người. Cũng có thể nói, Gioan là Gioan Tẩy Giả ngay khi còn bé tí. Người cha Dacaria từ chỗ cầu nguyện với Chúa mà chưa tin, tới chỗ sợ hãi bối rối, rồi chuyển sang câm nín lặng im, và cuối cùng là mở miệng vui mừng ngợi khen Chúa. Người mẹ Elisabet từ chỗ hổ thẹn trước người đời, tới chỗ âm thầm nhận ra tình thương của Chúa, rồi mừng vui nhận ra cuộc viếng thăm của Chúa và của Mẹ Thiên Chúa. Người dân từ chỗ không chê trách được ông bà điều gì nhưng lại “khinh thường” ông bà, tới chỗ tới chia vui vì thấy Chúa thương ông bà, rồi kinh sợ về tin vui, và cuối cùng là để tâm tự hỏi: rồi em bé này sẽ thế nào đây! Em bé Gioan cũng thực thi sứ mạng Tiền Hô, là nhảy mừng báo cho mẹ Elisabet rằng, Hài Nhi Giêsu trong lòng Mẹ Maria là chính là Chúa. Gioan còn bé tí nhưng Chúa ở cùng em.


Lạy Chúa! Việc Chúa làm quả thật lớn lao, người mộ mến ra công tìm hiểu.


Vinh sơn Vũ Tứ Quyết, SJ

Thứ Hai, 19 tháng 6, 2023

Trái Tim Tinh Tuyền


 Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền, để con luôn luôn cao dâng tâm tình kính mến. 

Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền, để con luôn luôn trung kiên vững một niềm tin…


Tôi rất thích cầu nguyện với bài hát này, vì nó giúp tôi vươn tới Chúa, nhất là khi tôi thấy tim mình không ít bợn nhơ. Hát bài này, tôi nhớ nhiều đến Mẹ Maria, người mẹ có trái tim tinh tuyền. Tôi chiêm ngắm trái tim Mẹ để tim mình được biến đổi.


Con tim Mẹ thao thức nhận biết điều Thiên Chúa muốn. Khi nghe Thiên sứ chào “mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng”, Mẹ bối rối tự hỏi lời chào này nghĩa là gì. Đúng là con tim gẫm suy để tìm ý Chúa.


Con tim Mẹ chất đầy một lòng tin đi tìm ánh sáng từ nơi Thiên Chúa. Khi Thiên sứ nói về việc Mẹ sắp thụ thai vượt quá sức hiểu của phàm nhân, Mẹ đơn sơ hỏi lại: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng? Và rồi, được soi tỏ, con tim ấy liền buông mình để Thiên Chúa tự do hành động: Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền.


Có Chúa ngự vào, con tim Mẹ trở nên nhạy cảm, vị tha như con tim Thiên Chúa. Con tim ấy thôi thúc Mẹ vội vã lên đường đến miền núi để thăm người chị họ cao niên đang thai nghén và cần được giúp đỡ. Với sự nhạy cảm của tình yêu, con tim Mẹ khám phá ra nhu cầu quan trọng của tha nhân, như tại tiệc cưới ở Cana ngày nào, và biết phải làm gì để giúp đỡ họ: Con ơi! Họ hết rượu rồi.


Con tim Mẹ tận tâm phục vụ tha nhân theo Lời Chúa chứ không theo sự khôn ngoan thế gian. Mẹ hướng dẫn gia nhân tại tiệc cưới: Người bảo sao, cứ làm vậy. Chìa khóa này đã giúp họ tìm được niềm vui đầy tràn cho cuộc đời: nước lã biến thành rượu ngon. Chính Mẹ đã luôn làm như thế nên được chứa chan hạnh phúc, như Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.


Trên đường theo Chúa, con tim ấy cũng đã nếm trải khổ đau nhưng luôn chân thành: Con ơi! Sao con lại làm như vậy? Cha con và Mẹ đây đã hết lòng tìm con. Trong mọi biến cố, con tim ấy là con tim biết ơn và tạ ơn. Mẹ nhận ra bàn tay Chúa trong cuộc đời mình: Chúa đã làm cho tôi biết bao điều cao cả; vì thế, linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Từ đó, con tim Mẹ can đảm và đứng vững đến cùng, dẫu phải chấp nhận nát tan khi cùng con hiến tế. Nói như Đức TGM Leopoldo Girelli, suốt cuộc đời, Mẹ luôn FIAT (xin vâng), MAGNIFICAT (ngợi khen) và STABAT (kiên vững).


Tim Mẹ tinh tuyền vì thuộc trọn về Chúa. Tim Mẹ tuyệt đẹp nhờ đập cùng Tim Chúa. Không ai gần Chúa như Mẹ. Không ai yêu Chúa bằng Mẹ, yêu với tình yêu tinh ròng, không vấn vương mùi đời, vụ lợi, ích kỷ. Tim ấy quảng đại mở ra để mọi người, nhất là những ai đau khổ, tìm được nguồn an ủi đỡ nâng.


Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ đặt con trong trái tim Mẹ để con được thuộc về Chúa. Con tin càng gần Mẹ thì con càng gần Chúa, và càng thuộc về Chúa thì tim con càng trở nên tinh tuyền. Amen.


V.K.S.J.

Thứ Ba, 13 tháng 6, 2023

Xin cho trái tim con gặp được Trái Tim Chúa

Mời bạn cùng tôi chiêm ngắm dung mạo hiền lành của Chúa Giêsu và Thánh Tâm yêu dấu của Ngài qua bức linh ảnh Trái Tim Chúa Giêsu do họa sĩ người Ý – Pompeo Girolamo Batoni vẽ vào năm 1765. Bức ảnh được bề trên Dòng Tên ở Roma thời đó đặt vẽ cho nhà thờ Il Gesù và hiện vẫn được tôn kính trong nhà thờ này.

 

Bạn thấy bức tranh này lần đầu tiên hay bạn đã từng  thấy bức tranh này khi còn ở tuổi thiếu nhi và thiếu niên?

 

Phần tôi, khi còn là một cậu bé trong xứ đạo, tôi đã nhìn thấy bức tranh này được in trong tấm hình nhỏ và chúng tôi những đứa bé học lớp giáo lý rước lễ lần đầu say mê và mong sao mình có được tấm hình đó. Bạn biết không, vì say mê ảnh thánh nên những đứa con nít như chúng tôi thi nhau gom góp ảnh Chúa, ảnh Đức Mẹ, ảnh các vị Thánh và rồi đưa đến nhà thờ khoe nhau. Đặc biệt đứa nào có được bức ảnh Trái Tim Chúa Giêsu này, thì thật là vinh dự, dù rằng chúng tôi chẳng biết nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa. Chỉ thấy Chúa đẹp là thích rồi. Vì thế, ai cũng thèm cũng khát được có bức hình này.

 

Khi ngắm nhìn bức tranh này, bạn nghĩ đến việc đạo đức nào?

 

Chắc chắn câu câu trả lời của bạn sẽ là: Kính trọng thể Thánh Tâm Chúa Giêsu, đặc biệt vào tháng sáu là tháng Giáo Hội dành riêng kính Thánh Tâm Chúa. Hơn nữa, vào các ngày thứ sáu đầu tháng các tín hữu cũng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.

 

Việc đạo đức kính Thánh Tâm Chúa Giêsu liên hệ chặt chẽ với đời sống Đức Tin của người tín hữu vào Chúa Giêsu, cũng như với các nhà thần bí hướng về Chúa Giêsu cách đặc biệt.

 

Không dễ dàng để xác định nguồn gốc của việc kính Thánh Tâm Chúa, vì nguồn gốc thiêng liêng của việc đạo đức này bắt nguồn từ Cựu Ước đến Tân Ước và đến các Giáo Phụ. Sau đó các thánh nhân và các nhà thần bí nam nữ trong thời trung cổ và đặc biệt vào thế kỷ 17 đã cổ võ việc đạo đức kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, đặc biệt thánh Jean Eudes, thánh Margarita Maria Alacoque và thánh Claude La Colombiere. Các ngài được gọi là “các thánh của Thánh Tâm”.

Vào năm 1956 thánh Giáo Hoàng Piô XII đã công bố thông điệp “Haurietis aquas in gaudio – Sẽ mừng vui múc nước” về việc cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa. Trong thông điệp có viết: “Lòng sùng kính Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu quan trọng đến nỗi khi được thực hành đúng đắn có thể được coi như sự tuyên xưng đức tin Kitô giáo cách hoàn hảo. Nó không phải chỉ là một hình thức đạo đức bình thường mà ai nấy tùy ý thực hiện như thể không có hiệu quả gì hay bỏ qua một bên như là thua kém các việc đạo đức khác”.

Đức Thánh Cha Piô XII nhấn mạnh thêm: “Ý nghĩa thâm sâu của việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là lấy tình yêu đáp trả tình yêu!”.

Trở về lại bức tranh, chúng ta cùng khám phá những điều thú vị.

 

Bức tranh về Thánh Tâm của họa sĩ Pompeo Girolamo Batoni có điều gì thú vị?

 

Pompeo Girolamo Batoni (1708 – 1787) sinh ra ở Lucca (Toscana). Cha ông là một thợ kim hoàn. Chàng trai Batoni bước vào nghề truyền thống của gia đình. Tuy nhiên, năm 19 tuổi, anh rời xưởng của cha mình và đến Roma để học hội họa. Ở đó, ông đã trở thành một trong những họa sĩ ở Roma nổi tiếng nhất và giỏi nhất trong thời đại của mình. Đặc biệt với tư cách là một họa sĩ vẽ chân dung, ông được đánh giá cao và được nhiều người săn đón.

 

Năm 1760, Pompeo Batoni được bề trên Dòng Tên Roma trao trách nhiệm vẽ một bức ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu cho nhà thờ Il Gesu của Dòng Tên.

 

Họa sĩ lập tức bắt tay vào việc. Nhưng ông vẫn cảm thấy khó khăn, mặc dù bản thân ông là một người có niềm tin tưởng mạnh mẽ và rất ngưỡng mộ trái tim Chúa Giêsu.

 

Ông thiếu ý tưởng để vẽ. Ông phải diễn tả tình yêu vô biên của trái tim Chúa Giêsu trong bức tranh như thế nào?

 

Với những vấn nạn đó, Pompeo Batoni lui về cầu nguyện và tĩnh tâm. Nhưng không có ý tưởng thỏa mãn nào đến với ông. Nỗi khổ nội tâm lớn hơn nữa.

 

Rồi một ngày nọ, sau khi tham dự thánh lễ sớm, và trong thánh lễ đó ông ý thức thưa chuyện với Chúa về sự khó khăn khúc mắc của ông trong việc vẽ bức tranh Thánh Tâm, và ông xin Chúa soi sáng giúp đỡ ông.

Trên đường từ nhà thờ về nhà, ông gặp một người hành khất xin ông bố thí chút tiền. Danh họa Batoni do dự, vì ông chỉ mang theo một đồng xu để đủ mua đồ ăn cho bữa điểm tâm. Nhưng sau vài khoảnh khắc do dự, ông đưa đồng xu đó cho người ăn xin, chính lúc này lời cầu nguyện thầm lặng của họa sĩ đã được đáp lại.

 

Danh họa đưa tay bố thí đồng xu, người ăn xin liền đặt tay trái lên trái tim của mình và đồng thời khiêm tốn đưa tay phải ra để nhận đồng xu.

 

Khi Batoni nhìn thấy thái độ này, ông nhận được ngay một ý tưởng giúp ông tháo cởi khó khăn ông đang có để vẽ bức tranh Thánh Tâm Chúa, nghĩa là ngay lúc đó ông nghĩ đến Chúa Giêsu, Ngài cũng chìa tay ra về phía con người chúng ta, để xin chúng ta chính tình yêu của chúng ta dành cho Chúa. Đó là sự đáp trả tình yêu của chúng ta đối với tình yêu cứu độ cao cả của Chúa dành cho chúng ta, như sách Châm Ngôn có viết: “Hỡi con, hãy cho Cha trái tim của con” (Cn 23,26).

 

Trải nghiệm bất ngờ trên đã đưa lại cho Batoni nguồn cảm hứng quan trọng để bắt tay vào vẽ bức tranh. Ông vội vã về nhà và cầm cọ lên vẽ bức tranh ngay lập tức và chỉ trong một thời gian ngắn đã vẽ xong bức tranh và bề trên Dòng Tên ở Roma rất hài lòng về linh ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu do danh họa vẽ.

 

Thật thú vị câu chuyện của họa sĩ với linh ảnh Thánh Tâm.

Giờ đây bạn cùng chiêm ngắm linh ảnh, bạn nhận ra những nét đặc biệt nào cho riêng bạn?

 

Danh họa Pompeo Batoni đã vẽ hình bán thân của Chúa Giêsu bằng sơn dầu trên một tấm hình bầu dục.

 

Chiêm ngắm linh ảnh, ta thấy dung mạo trẻ trung và xinh đẹp, hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu nổi bật rực rỡ trên nền tối.

 

Chúa Giêsu mặc áo dài màu đỏ. Màu đỏ tượng trưng cho máu (tử vì đạo) và tình yêu. Màu đỏ này còn đề cập đến nhân tính của Chúa và tình yêu cứu chuộc của Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Về cơ bản đó là điều mà việc tôn kính Thánh Tâm hướng tới. Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta và hiến thân vì chúng ta.

 

Màu xanh lam của áo choàng che vai phải của Chúa Giêsu ám chỉ thần tính của Chúa Giêsu.

 

Một quầng sáng hình Thánh Giá được biểu thị kín đáo xung quanh đầu Chúa Giêsu. Vinh quang của Đấng hiền lành và khiêm nhường tỏa ra thật nhẹ nhàng thanh thoát.

 

Chúa Giêsu hơi nghiêng đầu qua trái và hướng đầu về với người xem linh ảnh. Mái tóc nâu sẫm của anh ấy xõa xuống vai. Một bộ râu hẹp tạo khung cho khuôn mặt.

 

Chiêm ngắm đôi mắt Chúa, ta nhận ra nét hiền lành và khiêm nhường sâu thẳm. Đôi mắt này Ngài sẽ trao cho Giakêu, cho người phụ nữ tội lỗi ở nhà ông Simon, cho người phụ nữ còng lưng ở trong hội đường, cho anh Lêvi đang ngồi tại bàn thu thuế, đôi mắt đó cũng tìm đôi mắt của người phụ nữ bị bệnh băng huyết để chữa lành và ban bình an, đôi mắt của Đấng hiền lành và khiêm nhường cũng tìm đôi mắt của đồ đệ Phêrô chối Chúa ba lần, để nhờ đó ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết. Ôi đôi mắt hiền lành, khiêm nhường và nhân từ biết bao.

 

Đôi mắt của Chúa cũng tìm bạn và tôi trên hành trình cuộc sống, dù chúng ta vui hay buồn, mạnh khỏe hay đau yếu, sốt sắng hay tội lỗi. Hãy để cho đôi mắt Chúa gặp được đôi mắt của ta.

 

Bàn tay phải của Chúa Giêsu được giang ra. Thái độ này của Chúa được họa sĩ Pompeo Batoni tái hiện lại kinh nghiệm với người hành khất mà ông đã gặp. Bàn tay được mở nhẹ nhàng và hướng về phía trên giống như một cái bát. Dấu đinh màu đỏ được tỏ lộ rõ trong lòng bàn tay Chúa. Một dấu hiệu về mầu nhiệm cứu độ. Như thế, bàn tay phải của Chúa trong linh ảnh không hẳn là một cử chỉ để chỉ tay, mà là một cử chỉ cầu xin, giống như cuộc gặp gỡ của họa sĩ Batoni với người ăn xin. Tình yêu muốn tình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu muốn tình yêu của bạn và tôi đáp lại cho Ngài. Tình yêu mong chờ một lời đáp, một câu trả lời. Trái tim Chúa Giêsu gọi trái tim chúng ta.

 

Trong bàn tay trái Chúa Giêsu cầm trái tim của mình và Chúa chỉ cho mọi người trái tim của Chúa. Nhiều tia sáng rực rỡ phát ra từ trái tim. Một vòng gai bao quanh trái tim. Phía dưới bên trái, có vẻ như, vết máu đang chảy ra từ vết cắt, vết thương đâm. Phía trên tái tim như có một ngọn lửa đang cháy rực và ở phía tren và phía giữa trái tim một cây Thánh Giá nhỏ được cắm trên đó.

 

Với trái tim chìa ra trên bàn tay trái và bàn tay phải mở ra để đón nhận, Chúa Giêsu mời gọi người xem nhìn vào tình yêu của Người, suy niệm về tình yêu đó, tâm sự với trái tim Chúa,  đối thoại với Đấng Cứu Thế hiền lành và khiêm nhường, và trên hết Chúa mời gọi tất cả nhân loại hãy đáp lại tình yêu Chúa bằng chính tình yêu của chúng ta dành cho Chúa.

 

Vậy chúng ta nên đáp lời Chúa Giêsu và Thánh Tâm của Ngài thế nào đây?

 

Trước hết ta xác tin lời của Đức LEO XIII đã khôn khéo nhắc nhở: “sức mạnh và vẻ đẹp của vương quốc Đức Kitô vốn bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, nền tảng và chóp đỉnh của vương quốc ấy là TÌNH YÊU THÁNH THIỆN. Mọi nguyên tắc khác của đời sống đức tin đều do đó phát sinh ra.[1]

Tiếp đến ta ý thức đừng khép kín và từ chối tình yêu của Chúa Giêsu được biểu lộ trong trái tim thần linh của Người, mà ngược lại bạn và tôi cùng mở lòng ra với trái tim Chúa, đón nhận trái tim Chúa và để sức sống của trái tim Chúa thấm nhập, tuôn chảy và lấp đầy chúng ta. Để rồi bạn và tôi có thể trao gởi trái tim Chúa cho người khác qua việc phục vụ thật cụ thể và yêu thương thật sống động của chúng ta dành cho họ.

 

Như vậy, sự đáp trả của tình yêu có thể là món quà mà chúng ta đặt vào bàn tay trống không dang rộng của Chúa Giêsu. Chúng ta trao tặng cho Chúa tình yêu, Ngài ở trong các anh chị em đang sống gần bên chúng ta, đặc biệt Ngài đang hiện thân trong những người hèn mọn, nghèo hèn, bệnh tật, bị khinh rẻ, không được để ý, không được dòm ngó tới và không được yêu thương.

 

“Tình yêu cốt ở điều này:

không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,

nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,

và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.

 

Anh em thân mến,

nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,

chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4,10-12).

 

Chúng ta hãy để lời kêu mời của thánh Gioan vang vọng và thấm sâu vào tâm trí chúng ta.

 

Xin Chúa cho chúng ta biết giơ bàn tay ra để đón nhận trái tim của Chúa, trái tim yêu thương và chấp nhận mọi đau khổ vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta.

Tình yêu mong muốn tình yêu. Xin Chúa cũng giúp chúng ta biết giơ bàn tay còn lại ra để đáp lại tình yêu của Chúa, bằng cách yêu thương anh chị em ở gần bên, anh chị em mà chúng ta gặp trên đường, trên hết là các anh chị em bất hạnh và nghèo hèn.

 

Cuối cùng, mời bạn cùng tôi dâng lên Thánh Tâm Chúa Giêsu lời nguyện cầu:

 

“Lạy Chúa Giêsu, Chúa có trái tim hiền lành và khiêm nhường, xin làm cho trái tim con nên giống trái tim của Chúa!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho trái tim con gặp được trái tim Chúa!”

 

Nürnberg tháng 6.2023

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.

 

[1] Thông điệp Haurietis Aquas in Gaudio – Sẽ hoan vui múc nước. Trong chương 5.

Thứ Năm, 27 tháng 4, 2023

THƯ GỬI MẸ NHÂN NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO ƠN THIÊN TRIỆU

Mẹ yêu dấu!

Dưới ánh sáng của ngọn nến lung linh khi màn đêm vừa buông xuống, con quỳ trước bàn thờ Chúa với biết bao niềm vui và hạnh phúc. Bầu khí lặng thinh của phút hồi tâm cuối ngày như gợi cho con về ký ức tuổi thơ với cuộc sống hiện tại. Con nhớ tới mẹ và đại gia đình thân yêu của chúng ta, con tự tay viết cho mẹ đôi dòng tâm sự nhân ngày quốc tế cầu cho Ơn Thiên Triệu.


Mẹ à! Dù đã khôn lớn nhưng con không thể nào quên đi những ký ức tuổi thơ êm đềm, ấm áp bên vòng tay yêu thương của mẹ. Những ký ức ấy đã in sâu vào tiềm thức trong tâm trí và cuộc sống đức tin của con. Và nếu giờ này Chúa ban cho con một điều thì con sẽ : “ ước muốn cho thời gian trở lại”. Mong muốn thời gian trở lại ở đây không phải là để thay đổi quá khứ,  đúng hơn là để cho các biến cố xảy ra trong quá khứ được sống lại dưới ánh mắt đức tin của người Kitô hữu. Qua đó, con có cơ hội khám phá ra những dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa - Đấng làm chủ cuộc đời con. Vì thế, mẹ hãy cùng con ôn lại những kỷ niệm đẹp đẽ đó. Mẹ nhé!


Con còn nhớ ngày con còn rất nhỏ, có lẽ là lúc con mới có trí khôn. Chính mẹ là người đã dạy con làm dấu Thánh Giá để nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi con đến tuổi đi học, mẹ cũng là người cầm tay dắt con đi đến trường trên con đường làng quê quen thuộc. Những ngày được nghỉ hè con đi học giáo lý thì cũng chính mẹ đã dạy cho con những bài giáo lý đầu tiên. Dù mẹ không được học thần học cao siêu nhưng dưới ánh sáng đức tin của người công giáo mẹ đã dạy :  “Con hãy tôn thờ và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, siêng năng đi nhà thờ và tham dự thánh lễ ít nhất là một lần mỗi tuần con nhé! Chúa sẽ ban cho con thêm niềm tin- sức khỏe, trí thông minh và đạo đức để con sẽ thi hành sứ vụ mà Ngài đã trao ban. Ở môi trường học đường con không được đánh nhau,chửi tục, vô lễ với thầy cô giáo.  . . Ở nhà con hãy vâng lời ông bà, cha mẹ, anh chị  . . . Bài giáo lý cơ bản ấy đã âm thầm in sâu trong tiềm thức cuộc đời con. Để rồi con mới có cơ hội được lớn lên trong ơn nghĩa Chúa đã trao ban và sử dụng con như ngày hôm nay.


Con còn nhớ!

Những năm tháng gia đình còn khó khăn, nhà mình nghèo, không đủ ăn cũng chẳng đủ mặc. Bố lại thường xuyên đi làm xa nhà, mẹ ở nhà vất vả, long đong lận đận kiếm từng miếng cơm, manh áo về nuôi anh em chúng con. Cuộc sống tuy vất vả nhưng vào mỗi buổi tối, mẹ vẫn không quên giờ kinh trong gia đình và cùng chúng con lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Với con có lẽ đây là khoảng thời gian quý giá nhất của gia đình mình. Nhờ đó, gia đình cũng vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống và chúng con cũng được trưởng thành hơn. Có một kỷ niệm mà con vẫn còn nhớ mãi đó là ngày lễ cầu cho Ơn Thiên Triệu (Chúa Nhật IV Phục Sinh) và Khánh Nhật Truyền Giáo (Chúa Nhật thứ II tháng 10). Vào mỗi dịp lễ ấy, mẹ thường có thói quen nhắc nhở chúng con về ý chỉ cầu nguyện. Trước khi đi lễ, mẹ còn đưa cho con mấy đồng tiền và dặn dò :


“Thánh lễ hôm nay, giáo xứ có quyên góp cho nhà dòng hoặc dùng vào việc truyền giáo, con hãy cầm lấy và bỏ vào giỏ ở cửa nhà thờ và tham dự thánh lễ một cách sốt sắng để cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ nhé!”


Có năm, trong nhà không còn tiền thì mẹ lại bán đi mấy quả trứng gà hay bán đi mấy mớ rau. Ngày đó, khi trông thấy mẹ làm như vậy! Con vừa không hiểu lại vừa cảm thấy tiếc mấy quả trứng, mớ rau nhưng con chẳng dám hỏi mẹ. Trẻ con là thế đấy, sau mỗi hành động của người lớn luôn là một một câu hỏi “tại sao” không có lời giải đáp.


Thời gian thấm thoát đã trôi qua, mẹ cũng già đi rất nhiều. Còn con ngày một lớn khôn và được Chúa thương chọn vào nhà dòng, nơi hạt giống ơn gọi linh mục được vun trồng, chăm sóc, cắt tỉa… chờ ngày sinh hoa kết trái.  Nếu nhìn cuộc đời của con như những thước phim rời rạc thì xem ra những ký ức của cuộc đời con chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng dưới cái nhìn của Thiên Chúa thì những ký ức ấy lại ắp đầy những ý nghĩa.  Bởi vì, ngay khi “con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài” (Tv 139,16).

Như thế, dưới ánh nhìn của Chúa thì sự hiện hữu của con không bao giờ là một sản phẩm của ngẫu nhiên hay bị trôi dạt trong chuỗi các biến cố rời rạc. Ngược lại, cuộc đời và sự hiện diện của con trong thế giới này là hoa trái của một ơn gọi thánh thiêng. Chính Chúa đã ghé mắt nhìn đến cuộc đời con khi Ngài lắng nghe những lời khẩn cầu của mẹ. Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi con theo Ngài cho dù con giới hạn và tội lỗi. Xác tín vào tình yêu của Chúa, con sẽ không được chờ đợi cho đến lúc hoàn hảo mới quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, nhưng đón nhận tiếng Chúa với tâm hồn rộng mở và không sợ hãi.


Mẹ kính mến! Khi viết những dòng tâm sự này, con tin chắc ở nơi phương xa, Mẹ không chỉ dõi theo con và cầu nguyện cho con, cho tất  cả các bạn trẻ đang tìm hiểu ơn gọi. Dẫu biết rằng, lời cầu nguyện của mẹ có âm thầm và nhỏ bé như là “đồng xu” dâng lên của bà goá nghèo (Mc 12,41-44), nhưng dưới sự nhân từ của Thiên Chúa chắc chắn lời cầu nguyện ấy sẽ có giá trị. Giáo Hội hoàn vũ đang đối diện với cơn khủng khoảng về ơn gọi tu trì. Nếu nhìn ơn gọi tu trì là quà tặng của Thiên Chúa, thì mỗi người kitô hữu cần phải cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi như lời Chúa Giêsu dạy:


“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến” (Lc 10,2).


Nếu hiểu ơn gọi đồng thời là sự đáp trả của con người, thì mỗi người chúng ta cần có ý thức và cộng tác để vun trồng các mầm ơn gọi trong gia đình và trong giáo xứ. Mỗi người cần biết cổ võ ơn gọi và nâng đỡ các chương trình mục vụ ơn gọi trong Giáo Hội để càng ngày Giáo Hội có nhiều người trẻ dám quảng đại dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Chắc chắn,  Chúa sẽ nhậm lời và ban cho Giáo Hội có thêm nhiều thợ gặt lành nghề trong cánh đồng truyền giáo.


Lạy Chúa, xin Chúa đoái thương nhận lời chúng con cầu xin mà ban cho dân Chúa có nhiều vị mục tử như lòng Chúa ước mong. Xin cho các tín hữu luôn biết lắng nghe lời Chúa và đón nhận giáo huấn của Chúa qua sự giảng dạy của các ngài, để Hội Thánh Chúa ngày một thăng tiến trên con đường thánh thiện, hầu xứng đáng đón nhận hồng ân Nước Trời ngay trong cuộc sống hiện tại.


NVK/RFA

Thứ Năm, 20 tháng 4, 2023

Một vài phương thức cầu nguyện đơn giản

Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa. Như thế, cầu nguyện không phải là chuyện của phàm tục, nó đòi hỏi một sự “nâng lên”, nhấc bổng lên khỏi cái thường hằng. Đối tượng cần nâng không phải là một sự vật vật chất nào nhưng là “tâm hồn của mình”. Đó là một hành vi tâm linh, hướng trọn vẹn con người mình về cõi trời cao, nơi Thiên Chúa đang ngự trị. Cũng có người cho rằng cầu nguyện là đi vào tận sâu cõi lòng mình để gặp gỡ Thiên Chúa ngang hiện diện nơi đó. Dù cách diễn đạt có khác nhau, nhưng tất cả đều nói đến một nguyên lý của cầu nguyện là “gặp gỡ Thiên Chúa”. Và vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng, nhất thiết chúng ta phải cầu xin sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Chỉ trong Ngài, chúng ta mới có thể cầu nguyện thật sự, vì không phải chúng ta nhưng chính Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta, như lời thánh Phaolo nói (x.Rm 8,26-27).

Vì cầu nguyện là cái gì đó rất tự nhiên của con người chúng ta khi đặt mình trước Thiên Chúa, nên suy cho cùng, nó không cần một kỹ thuật hay chỉ dẫn gì cả. Hãy cứ để cho chính mình tự mở lòng với Chúa ngang qua những cảm xúc, chuyển động, hay nói chung là tình trạng hiện tại của chúng ta. Nói nôm na, chúng ta đang có gì trong lòng thì cứ thản nhiên thưa chuyện với Chúa. Đây là cách cầu nguyện khá đơn giản mà chúng ta có thể thực hành ở bất cứ nơi nào. Chúng ta cũng không cần phải chuẩn bị gì cả, chỉ cần giữ thinh lặng một chút, nhìn về bản thân, xem lòng mình đang có gì và đang muốn diễn tả điều gì với Chúa. Thông thường, đó sẽ là những tâm tình như tạ ơn (khi chúng ta thấy là mình đã nhận được điều gì từ Chúa), ngợi khen chúc tụng (khi chúng ta thấy một điều gì đó thật tuyệt vời mà chúng ta tin là chính Chúa đã làm), xin lỗi (khi chúng ta thấy mình đã làm điều gì đó không đúng, có lỗi với Chúa), xin ơn (khi chúng ta thấy mình đang thiếu điều gì đó và cần được Chúa giúp đỡ). Nếu có những tâm tình như vậy, chúng ta cứ tự nhiên bày tỏ với Chúa bằng những từ ngữ của chính mình.

Nếu chúng ta không biết phải nói gì, hoặc không chưa tìm thấy những tâm tình nơi thâm sâu cõi lòng, chúng ta có thể mượn những lời kinh hoặc lời cầu nguyện của người khác để thân thưa với Chúa như thể đó cũng là nỗi lòng của chính mình. Dễ nhất là những kinh thông dụng như Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh. Chúng ta có thể lần chuỗi khi đang chờ xe buýt, khi đang “ở không”. Vừa đọc vừa ngẫm những gì mình đọc hay ngẫm về các mầu nhiệm liên quan. Chúng ta cũng có thể sưu tầm những lời nguyện của các thánh như Kinh hoà bình, Kinh dâng hiến, Kinh quảng đại… và rất nhiều lời kinh mà các linh mục tu sĩ đã soạn… Mỗi sáng thức dậy, mỗi tối trước khi ngủ, hãy nhớ đến Chúa. Trước khi bắt đầu việc gì đó, hoặc sau khi làm xong, xin ơn Chúa hoặc tạ ơn Chúa, hoặc chỉ cần làm một cử chỉ cung kính, tỏ lòng thờ phượng như làm dấu, cúi đầu, để tay lên ngực… Tất cả những thực hành nhỏ bé này cũng giúp bản thân quen với sự hiện diện của Chúa.

Việc cầu nguyện gắn liền với sự thinh lặng đến nỗi người ta có thể đánh đồng hai điều này với nhau. Thinh lặng ở đây không chỉ có nghĩa là không nói gì, nhưng là sự im bặt của tâm trí và cõi lòng, một sự lắng đọng sâu sắc. Đạt được tới sự thinh lặng, người ta dường như đã làm hết những gì cần làm để gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, có đôi khi chúng ta không cần phải nói gì, làm gì khi cầu nguyện, nhưng chỉ đơn thuần là lắng tâm hồn xuống, gạt bỏ mọi nỗi bận tâm, để tâm hồn được nghỉ ngơi với Chúa. Để làm được điều này, chúng ta cần một nơi thanh vắng yên lặng nào đó. Chúng ta có thể đến nhà thờ, nhà nguyện, một công viên, hoặc ở phòng riêng. Chúng ta có thể đến trước giờ lễ một chút hoặc sau thánh lễ, có thể ở lại một chút, hướng mắt chiêm ngắm Thánh Thể, hoặc tượng Chúa chịu nạn. Hoặc tốt hơn, khi nào có thể (chẳng hạn vào dịp cuối tuần), tham gia một khoá tĩnh tâm ngắn ngày, hoặc đăng ký tham gia sinh hoạt ở một nhóm cầu nguyện.

Về phương pháp, có rất nhiều cách thức cầu nguyện. Trước hết là lectio divina. Đây là một cách cầu nguyện cổ điển dựa vào Kinh Thánh dựa vào 4 bước: lectio (đọc Lời Chúa), meditatio (suy niệm), oratio (cầu nguyện), contemplatio (chiêm niệm). Cũng có kiểu cầu nguyện nhẹ nhàng và thịnh hành trên thế giới hiện nay: cầu nguyện theo phương pháp Taizé. Lối cầu nguyện này chủ yếu dựa trên việc lặp đi lặp nhiều lần một đoạn nhạc nhẹ, vừa sâu lắng vừa truyền cảm, và để cho lời của nó từ từ thấm vào trong lòng mình, giúp mình cảm thấy thật bình an. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện theo kiểu “nhìn lại cuộc sống”. Đơn giản chỉ là để lòng mình lắng xuống, từ từ nhìn lại những chuyện vừa xảy đến với mình: những biến cố nói gì với mình, mình đã hành xử tốt chưa, có điều gì cần điều chỉnh lại cho tốt hơn không?… Có thể áp dụng kiểu cầu nguyện này vào cuối ngày, hoặc cuối tuần… Áp dụng thường xuyên, nó sẽ giúp chúng ta biết mình hơn và làm chủ mình tốt hơn.

Để dễ dàng hơn cả, bạn nên dùng Tin Mừng hằng ngày để gặp gỡ Chúa. Mỗi ngày, có thể đọc Tin Mừng một cách chậm rãi, suy nghĩ về nó, để xem Chúa muốn nói gì với mình, hoặc tự hỏi xem mình có thể ứng dụng Lời Chúa dạy hôm nay trong cuộc sống của mình thế nào. Cũng có thể đọc các bài đọc hoặc Thánh Vịnh (đáp ca) của ngày hôm ấy. Nếu không có nhiều thời gian, chỉ cần chọn một câu nào đó đánh động tâm hồn, đọng lại lâu trong lòng và suy gẫm nó trong suốt ngày sống. Việc trung thành đọc và suy niệm Lời Chúa hàng ngày sẽ giúp chúng ta thân quen với Lời và chính Lời sẽ trở thành ánh sáng chỉ đường dẫn lối cho chúng ta, cũng như sẽ biến đổi cuộc sống của chúng ta một cách nhiệm mầu.
 
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2023

Bình An Cho Anh Em


Nỗi sợ vẫn còn đó trong tâm khảm của các môn đệ. Nhớ lại đêm ở Vườn Dầu, khi binh lính hùng hục kéo đến, với giáo mác và khí giới trên tay, quyết tâm bắt cho bằng được Giêsu, các môn đệ đã chạy tán loạn như đàn ong vỡ tổ. Những đòn roi khinh khiếp, những mũi đinh đóng xuyên qua thịt, những dòng máu tươi thi nhau tuôn trào trên thân thể Thầy… Tất cả những hình ảnh ghê rợn ấy dường như vẫn còn in một dấu rất đậm, tưởng chừng như không thể nào phôi phai trong ký ức. Chỉ với vài ngày trước thôi! Cho đến bây giờ, các ông vẫn chưa thể tin được là Thầy mình đã chết, đã bị người ta giết, đã không còn hiện diện với các ông. Một vị Thầy quyền năng và đáng kính, đã làm biết bao nhiêu dấu lạ, nay cũng không thể làm gì trước sức mạnh của binh lính. Một vì Thầy mà mình đã từng đặt rất nhiều hy vọng nay cũng trở thành nạn nhân của bạo quyền và chết tức tưởi trên cây thập giá đau thương. Bao mơ ước, bao khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, danh giá hơn, nay vụt bay như áng mây chiều biến tan trong làn gió.


Dẫu đã được Thầy nhiều lần loan báo là Người sẽ sống lại, dù đã được các phụ nữ báo cho biết là Người đã phục sinh, và thậm chí Phêrô và Gioan đã chạy ra mồ và thấy được các dấu chỉ cho thấy những gì các phụ nữ nói là đúng, nhưng các ông vẫn chưa thể chấp nhận được. Nỗi lo sợ vẫn còn đè nặng trên các ông. Các ông giam mình trong phòng tối, không dám bước ra vì sợ rằng mình cũng sẽ chịu chung một kết cục như Thầy khi bị quân lính phác giác. Hy vọng về một tương lai tươi sáng đã sụp đổ, họ không muốn mình mất đi cả mạng sống này cách oan ức. Đi theo một ông Giêsu tưởng là sẽ đổi đời. Nay chẳng những chẳng được gì tốt đẹp hơn mà ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa. Tình thế thật căng thẳng. Sự an nguy của bản thân như ngàn cân treo sợi tóc. Một nỗi bất an khủng khiếp ập xuống trên các ông. Tương lai tiền đồ đen tối. Giờ chẳng biết phải làm sao, phải sống như thế nào, phải hành xử ra sao.


Trong bầu không khí căng thẳng và ngột ngạt ấy, Chúa đã hiện ra với các ông. Lời đầu tiên Chúa nói là lời cầu chúc bình an: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Đây là điều các ông đang rất cần: bình an. Món quà đầu tiên mà Chúa Phục Sinh mang đến là sự bình an, một sự xoa dịu trong tâm hồn, một nâng đỡ thiêng liêng vô cùng quý báu. Khi tâm trạng đang rối bời vì những mối lo, khi tương lai u ám tối mịt vì chẳng thấy phương hướng nào thì bình an như một tia sáng rọi tới, tháo gỡ đi tất cả những ưu phiền. Hơn nữa, đây lại là bình an phục sinh, chứ không phải là một kiểu cảm xúc mau qua, một kiểu trấn an tạm bợ để xoa dịu tâm hồn. Sự xuất hiện của Giêsu luôn luôn mang đến cái gì đó mới mẻ và cần thiết cho cuộc sống của con người.


Các bạn trẻ thân mến,


Đã sống trong cuộc đời này, chắc chắn là có lúc chúng ta cũng rơi vào trạng thái như các môn đệ: hụt hẫng, buồn phiền, thất vọng. Ai trong chúng ta cũng khao khát mình có một sự bình an mãnh liệt để có thể vượt lên tất cả những cảm xúc tiêu cực ấy, nhưng có mấy khi ta có được. Có rất nhiều người đi tìm bình an nơi bạc tiền, vì cứ ngỡ là có nhiều tiền, ta được đảm bảo về vật chất, muốn gì có nấy, không phải lo lắng chi. Nhưng bạc tiền cũng như gió như mây, biết đâu có ngày ta không còn gì hết. Có người cố sức kiếm tìm chút công danh, vì nghĩ rằng càng ở vị thế càng cao, càng có quyền nhiều, đời sống ta sẽ được đảm bảo. Nhưng quyền lực cũng có lúc tàn, mấy ai người sẽ chịu phục tùng ta suốt đời suốt kiếp. Có người cảm thấy bình an khi là người nổi tiếng, được nhiều người biết đến. Nhưng rồi thời gian trôi qua, tài năng sắc đẹp cũng dần phôi pha, có mấy người vẫn còn giữ mãi hình ảnh của ta trong lòng họ. Những kiểu bình an ấy, hóa ra cũng chỉ là bong bóng chợt hiện chợt tan. Càng kiếm bình an nơi bạc tiền, vinh hoa và danh tiếng, ta càng cảm thấy mất bình an, vì lúc nào cũng phải nơp nớp lo sợ sẽ mất nó. Còn lo sợ là còn có bất an.

Chẳng mấy ai trong chúng ta có được một sự bình an như con chim vẫn thản nhiên hót giữa mưa gió bão giông. Một sự bình an đến lạ kỳ! Bình an mà Giêsu mang đến cho chúng ta là kiểu bình an ấy. Bình an dựa trên một nền tảng vững chắc là niềm tín thác vào Chúa. Bình an có được nhờ mạnh mẽ và can trường vác cây thập giá băng qua giữa đêm đen mù tối của kiếp người. Người Kitô chúng ta sở dĩ có được bình an là nhờ chúng ta luôn xác tín cách vững chắc là mình chẳng có gì phải sợ, chẳng có gì phải lo lắng. Mọi chuyện đã được Chúa quan phòng chở che. Đấy mới là bình an đích thực: bình an của em bé nằm ngủ ngon trong vòng tay mẹ. Hãy đến với Chúa Phục Sinh để Ngài ban cho chúng ta kiểu bình an tuyệt vời ấy.


Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Chủ Nhật, 9 tháng 4, 2023

𝐍𝐢𝐞̂̀𝐦 𝐕𝐮𝐢 𝐏𝐡𝐮̣𝐜 𝐒𝐢𝐧𝐡


 Các bạn trẻ thân mến,


Những ngày u ám đã qua. Những đòn roi, tiếng hò hét đòi đóng đinh, những tranh luận gay gắt, tiếng chửi rủa, sỉ vả, tiếng búa chan chát, những giọt máu, vòng gai… chỉ qua một đêm là đã trở thành dĩ vãng. Người thỏa mãn với quyền lực của mình thì vui tươi vì đã loại trừ được một cái gai trong mắt. Người sợ hãi thì giam mình trong những gian phòng tối. Những cao trào hay ồn ào của sự kiện một người nổi tiếng bị đóng đinh cũng qua đi. Mọi người lại trở về với cuộc sống bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy đến. Lịch sử của cuộc đời Giêsu tưởng là đã chấm hết với những khăn liệm và ngôi mộ lạnh lẽo thê lương. Ai ngờ, chính từ nơi cõi chết ấy, Thiên Chúa đã biểu dương quyền năng của Người. Từ lòng đất âm u, Người đã cho bừng dậy muôn nơi những phúc ân rạng rỡ.


Sáng sớm hôm ấy, có một số người phụ nữ yêu mến Giêsu lặn lội chạy ra mồ khi trời còn chưa tỏ.  Trên đường đi, các bà còn lo lắng không biết phải đẩy tảng đá lấp mồ như thế nào, để có thể vào trong xức dầu thơm cho xác Chúa.  Trong nhãn quan của các bà, rõ ràng là Giêsu đã chết.  Nhưng vừa ra đến mồ, các bà kinh hãi vì tảng đá đã được dịch sang chỗ khác.  Lại còn có các Thiên Sứ sáng chói ánh hào quang cho biết là Đức Giêsu đã sống lại rồi.  Các bà vội chạy về báo cho các môn đệ.  Hai ông Phêrô và Gioan cũng vội vã chạy ra và chứng thực những gì mà các bà kể lại.  Bà Maria Madalena chưa kịp hoàn hồn, cứ ngỡ ai đánh cắp xác của Thầy mang đi.  Bà đứng đó mà khóc.  Sau khi được tiếng gọi của Đức Giêsu lay động, bà vui mừng hớn hở, chạy về loan tin khắp nơi.  Một niềm vui khác hẳn chợt bừng lên trong bà và những ai chứng kiến, một niềm vui có âm vị chưa từng có trong đời.  Niềm vui ấy là niềm vui do cảm nghiệm được sự sống thần linh, niềm vui được cảm nếm trước hạnh phúc Thiên Đàng, nếm được một sự sống thật, sự sống của chính Thiên Chúa.


Sự kiện Chúa chết và sống lại đã xảy ra cách đây khá lâu xét về mặt lịch sử.  Nhưng ơn phục sinh của Ngài vẫn luôn có đó và tuôn tràn khắp nơi, trong con tim và khối óc của mỗi người.  Có một hạt giống bị chôn vùi vào lòng đất, nay trổ sinh thành một chồi non mơn mởn, chứa đựng bên trong bao sức sống khác.  Mùa đông đã qua đi, mùa xuân đến kéo theo muôn chim vui ca hót tưng bừng, ngàn hoa đua nhau khoe sắc.  Xã hội có thể có những lúc khủng hoảng, nhưng rồi mọi chuyện cũng tốt lên. Cuộc sống của chúng ta có thể có những khoảng thời gian u ám, tưởng như không sao vượt qua được, nhưng rồi một tia hy vọng chợt đến, giúp ta lấy lại thế quân bình, và tiếp tục sống những ngày tháng vui và hạnh phúc.  Thánh Thần chưa bao giờ thôi hoạt động.  Những sự sống mới lúc nào cũng nảy sinh.  Nơi góc đá khô cằn bên sườn núi, ta vẫn thấy có những cành hoa dại cố gắng vươn ra.  Nơi những triền dốc chơ vơ giữa trời, thấp thoáng vẫn có nhành cây nhỏ uốn mình theo gió.  Nơi sa mạc khô cháy và hoang vu, vẫn có những ốc đảo xanh rì rợp bóng mát.  Những dấu hiệu tự nhiên như thế cũng tỏ lộ phần nào quyền năng mãnh liệt của Thiên Chúa vượt lên trên sự chết rợn người.


Sự phục sinh của Giêsu cho chúng ta thấy những gì mà trước kia Ngài nói với chúng ta không sai chút nào.  Rằng nếu con người chịu chết đi cho những lụy tục của mình, con người sẽ được sống.  Rằng muốn đi đến vinh quang, con người phải đi qua thập giá.  Rằng niềm tin và tình yêu sẽ chiến thắng tất cả.  Rằng quyền năng của Thiên Chúa là vô đối vô song.  Rằng chỉ cần ta một lòng tín thác vào Chúa và vâng nghe Lời Người thì Người sẽ cho ta thấy Người tuyệt diệu biết bao khi dẫn ta qua những màn đêm của chết chóc.  Dẫu có khi đứng trước những hy sinh, ta có phần sợ hãi, buồn phiền, thậm chí là chùn chân, nhưng nếu ta tiếp tục tín thác và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp trong tay Chúa, ta sẽ được Người thưởng công bội hậu.


Để có thể trở thành một con bướm xinh, con sâu phải chịu đau đớn chui ra khỏi cái kén. Để có thể trở thành một con chim sải cánh giữa trời bao la, những mệt mỏi khi cố gắng thoát ra khỏi cái vỏ là điều không thể tránh đối với nó. Thành công nào cũng đòi phải có hy sinh.  Phục sinh nào cũng đòi phải bước qua thập giá. Ước gì Chúa Phục Sinh ban thêm sức cho chúng ta, để chúng ta dám vượt thắng con người ù lì và nhát đảm của mình, dám hy sinh vì công lý, vì đạo nghĩa, vì Đức Kitô ngõ hầu chúng ta có thể được cùng Người sống lại trong vinh quang.


Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Thứ Năm, 2 tháng 3, 2023

12 ĐẶC ĐIỂM CỦA THÁNH GIUSE MÀ MỖI NGƯỜI CHA NÊN NOI GƯƠNG

Có bao giờ bạn tự hỏi làm thế nào để trở nên một người cha tốt nhờ vào gương sáng của Thánh Giuse? Trong bảng tóm tắt dưới đây, bạn sẽ tìm thấy 12 phẩm chất của Thánh cả Giuse có thể áp dụng vào cuộc sống của mỗi người cha:


1. NGƯỜI “CÔNG CHÍNH”


Đối với người Do Thái, thành ngữ "người công chính" ít nhiều tương đương với việc gọi ai đó là thánh. Thánh sử Matthêu dùng nó để mô tả Thánh cả Giuse (Mt 1,19). Ngài là một người luôn tìm kiếm để thấu hiểu và sẵn sàng thực thi Thánh ý Thiên Chúa, thậm chí phải trả giá bằng sự đau khổ và hy sinh. Chẳng hạn, chúng ta thấy Người luôn tuân giữ Luật Môsê trong Lễ Tiến Dâng Chúa Hài Đồng tại Đền thờ (Lc 2: 22,27,39). Ngài cũng vâng lời với cách đáp trả bốn thị kiến trong những giấc mơ mà Ngài đã được mặc khải (x. Mt 1,20; 2: 13,19,22).


2. NGƯỜI CHE CHỞ VÀ BẢO VỆ


Để bảo vệ Chúa Giêsu khỏi vua Hêrôđê, kẻ muốn giết Chúa Giêsu vì tin rằng Người sẽ chiếm đoạt ngai vàng của ông ta. Thánh Giuse quyết định chịu cảnh tha hương cùng Đức Maria và Chúa Hài đồng ở Ai Cập. Tại đó, ngài sẵn sàng sống như một người ngoại quốc trong khi là một người Do Thái (x. Mt 2,13-18) cho đến khi có điều kiện trở về quê hương Israel.


3. BÌNH DỊ


Khi trở về từ Ai Cập, Thánh Giuse không hoàn toàn tin vào những gì vua Hêrôđê con có thể làm với Hài Nhi Giêsu. Vì thế, Ngài chọn một cuộc sống bình dị và không gây chú ý tại Nazareth - một ngôi làng nhỏ. Đối với người Do Thái, Galilê không phải là một nơi có thế giá: họ cho rằng “không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả” (Ga 7:52). Và chính Nathanael đã hỏi Chúa Giêsu, "Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được?" (Ga 1,46) Thánh Cả Giuse chọn cuộc sống bình dị để tập trung vào một điều quan trọng: đó là Đấng Mêsia có thể hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc của Người.


4. CON NGƯỜI HÀNH ĐỘNG


Thánh Giuse – một người thực tế, quyết đoán và giàu nghị lực. Ngài luôn phải đưa ra những quyết định khó khăn và quan trọng, chẳng hạn như, phải làm gì trong mối liên hệ giữa Ngài với Đức Trinh Nữ Maria khi phát hiện ra rằng Maria sắp sinh một con trai (Người là Con Thiên Chúa). Ngài phải lên kế hoạch cho chuyến đi Bêlem để đăng ký điều tra dân số trong khi Đức Maria đang mang thai. Và chúng ta có thể tưởng tượng Thánh Giuse đã phải thiết lập và tháo dỡ xưởng mộc của mình ở bất cứ nơi nào ngài đến để nuôi sống gia đình mình. Lòng nhiệt thành và quan điểm thiêng liêng của Thánh Giuse không mâu thuẫn với việc ngài là một con người hành động.


5. KHIÊM NHƯỜNG


Thánh Cả Giuse chắc chắn đã cố gắng làm những gì có thể để chuẩn bị thật chu đáo cho sự giáng sinh của Hài nhi Giêsu, nhưng vì sự việc lại diễn ra tại Bêlem, nên thánh nhân phải chấp nhận rằng Đấng Messia đã phải sinh ra trong máng cỏ vì “không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc. 2: 7). Ngài thích nghi và cố gắng làm những gì tốt nhất cho Con Thiên Chúa trong cảnh huống này.


6. YÊU THƯƠNG


Ở bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria, một người đàn ông có thể cư xử như thế nào khi hiểu hết được sự cao cả trong sứ mệnh của mình? Thánh nhân biết ngài đang chăm sóc Đức Mẹ một cách đặc biệt, Mẹ là mẹ của Chúa Giêsu – Đấng là Thiên Chúa thật và người thật. Ngài cũng ý thức rằng ngài mang trọng trách là cha nuôi của Đấng Messia. Chúng ta có thể thừa nhận Thánh Giuse là một người cha yêu thương, dịu dàng, gần gũi, ân cần, nhân hậu, vui vẻ, nhưng không làm giảm đi sức mạnh và quyền thế của mình.


7. CAN ĐẢM


Khi biết Đức Maria sẽ là Mẹ Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse đã nhận lấy tư cách làm cha hợp pháp của Chúa Giêsu và làm theo lời sứ thần phán: “Ngươi phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu vì chính người sẽ cứu dân người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1:21).


8. KHIẾT TỊNH


Thánh Giuse là người thuộc dòng dõi hoàng tộc trong dân Do Thái. Lẽ ra, ngài có thể có một cuộc hôn nhân đơm hoa kết trái và có những đứa con ruột. Nhưng Thiên Chúa có một dự định khác, và Thánh Giuse được chọn làm cha "nuôi" của Chúa Giê-su. Ngài sẽ giữ khiết tịnh, sẽ bảo vệ và cư xử với Đức Maria và Chúa Giêsu với lòng tôn trọng tuyệt đối. Và Thánh nhân sẽ hiến chính bản thân mình cho sứ mệnh này với tất cả trái tim của ngài. Đó là lý do tại sao Giáo hội đã đặt Thánh Giuse làm bổn mạng của các gia đình: bởi vì ngài biết không điều gì ngoài tình yêu đích thực nên ngự trị trong một gia đình.


9. THỰC HIỆN QUYỀN THẾ


Tin Mừng Thánh Luca cho chúng ta biết rằng, sau sự kiện tại Đền Thờ ở Giêrusalem (con trẻ bị thất lạc và cuối cùng được tìm thấy), Thánh Gia trở về nhà và Chúa Giêsu “sống cùng cha mẹ Người” (Lc 2:51). Thánh Giuse thi hành quyền thế trong khi biết rằng ngài đang trong vai trò làm cha của Đấng là Thiên Chúa của ngài. Và sau đó kết quả được trưng dẫn trong chính Tin Mừng: "Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến." (Lc 2:52).


10. ĐỜI SỐNG NỘI TÂM


Thánh Giuse phải làm việc, đi lại, nuôi sống gia đình hàng ngày, quan tâm khách hàng trong công việc làm mộc. Nhưng ngài không bao giờ sao lãng những giờ tương giao với Thiên Chúa: thánh nhân đặt câu hỏi, tìm kiếm câu trả lời và cách giải quyết, rồi ngài vâng theo. Ngài biết rằng trong ba người (Ngài, Đức Maria, Chúa Giêsu ), ngài là người cần Chúa nhất, và ngài không ngừng cầu nguyện. Trong cuộc sống hàng ngày, ngài tương giao trực tiếp với Chúa Giêsu và Mẹ Maria! Đó là lý do tại sao Thánh nhân là bậc thầy về đời sống nội tâm: Ngài có thể hướng dẫn chúng ta trong tình yêu thương.


11. CON NGƯỜI LAO ĐỘNG


Qua Tin Mừng, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là con của một bác thợ mộc (xem Mt 13:55). Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng ngài không giàu có và không sống cuộc sống như một người thừa kế: ngài đã làm việc bằng chính đôi tay của ngài để nuôi sống gia đình Nazareth. Ngài được biết đến như một người lao động tuyệt vời.


12. ĐÔI MẮT HƯỚNG VỀ THIÊN QUỐC


Thánh Giuse dâng mình cho những kế hoạch của Thiên Chúa, vì biết rằng điều quan trọng nhất trong cuộc đời là thi hành Thánh ý Thiên Chúa. Đó là tất cả những gì sẽ đưa ngài về thiên quốc. Ngài đã dẫn đưa gia đình mình lên đường và là người đầu tiên trong 3 người hoàn tất cuộc hành trình đời mình. Thật hợp lý khi nghĩ rằng khi ngài qua đời, Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã ở cùng ngài. Đó là lý do tại sao ngày nay chúng ta có ngài là vị thánh bảo trợ cho một một cái chết lành; chúng ta cũng mong ước rời khỏi thế giới này như vậy, được bao quanh bởi Thánh Gia.


Dolors Massot


Thứ Ba, 28 tháng 2, 2023

Lời tâm sự của một bào thai



 

Kể từ lúc cha và mẹ gặp nhau, tâm hồn xốn xang, mình bắt đầu nhảy múa. Như chú thỏ trắng tung tăng giữa đồng cỏ mơn mởn tươi xanh còn đang nặng trĩu hạt ngọc trong veo đầu cành dưới ánh bình minh của buổi sớm mai ấm áp, mình cũng tung tăng trong vòi trứng của mẹ. Rồi từng bước, từng bước mình lao xuống dạ của mẹ như nhảy vào một thúng bông êm ái, dịu dàng.


Ôi! dễ chịu làm sao! hạnh phúc làm sao! Mọi thứ mở ra trước mắt làm mình sướng rung lên. Cung điện của mình là đây. Mình đúng như một nàng công chúa tuyệt mỹ được mẹ cha cưng chiều hết mức. Mọi thứ tốt nhất nơi cung điện này, mẹ cha đã dành sẵn cho mình.


Nhưng mấy ngày trôi qua, mình cảm thấy không được vui như trước. Dường như mẹ không để ý đến sự xuất hiện của mình. Đang lúc cô đơn, mình lại thấy trái tim mẹ bắt đầu vồn vã, nhưng vồn vã một cách khó hiểu. Mình nghe thấy một giọng ồm ồm nhưng lãng mạn. Hình như đó là tiếng nói của cha. Những lời ân ái của cha làm mình đỏ mặt. Ôi! Cha của con! cha thật tuyệt vời biết bao! Mình lấy lại được cảm giác vui mừng rồi! Mình có mẹ và có cha!


Tuy thế, điều làm mình trăn trở là hơn một tháng trong lòng mẹ, nhiều điều diễn ra làm mình không sao hiểu nổi. Có những khi, những tưởng mẹ gặp cha, nhưng không, đó lại là những người xa lạ. Ôi! Cuộc đời sao nhiều cay đắng thế! Mẹ ơi! trong mắt người ta, mẹ của con chỉ là một ả thanh lâu bạc mệnh. Khi vui họ chuốc rượu tình nồng, lúc buồn họ xử với mẹ như đồ bỏ đi.Thế nên cứ mỗi đêm về, nỗi buồn và sự đắng cay của mẹ cứ bao trùm lên cả cõi lòng kẻ làm con. Nằm trong dạ êm ái của mẹ nhưng sao trái tim mình như bị xát muối?


Bỗng dưng hôm ấy mẹ hốt hoảng đến lạ lùng. Đến “ngày ấy” rồi, mẹ không thấy có. Hình như mẹ mắc bệnh gì rồi. Nghiêm trọng lắm! Mình cũng lo cho mẹ nữa. Mấy ngày rồi, mẹ trở nên xanh xao vàng vọt, cứ ăn vào lại muốn ói ra.


Hôm sau, từ phòng khám trở về, mẹ thất thần, tâm hồn nặng trĩu. Mẹ khóc rất nhiều. Buồn tủi làm sao khi sự xuất hiện của mình lại làm mẹ hoảng sợ đến thế! Ngày qua ngày, mẹ bắt đầu rút vào cõi riêng tư với một nỗi dày vò và bối rối sâu thẳm. Mẹ chẳng còn tiếp xúc với ai nữa…


Con biết mẹ chẳng bao giờ muốn làm “nghề đó”. Cũng chưa bao giờ mẹ sẵn sàng chào đón con bước vào thế giới của mẹ. Chắc hẳn là sẽ rất khó khăn cho mẹ trong lúc này.


Bỗng nhiên, một ý nghĩ khủng khiếp đến với mẹ. Mẹ muốn!…


Cả một vùng trời hy vọng dường như sụp xuống trước mắt mình!


Mẹ ơi! Xin đừng!… Xin cho con được một lần ngắm nhìn ánh bình minh trên ngọn núi. Xin cho con một lần đưa tay hứng lấy những giọt sương long lanh nơi đầu nhành lá non tươi. Xin cho con một lần được hôn lên trán mẹ và thốt lên: “Mẹ ơi! Con thương mẹ lắm. Mẹ ơi!”


Đa-minh Văn Quỳnh, SJ

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2023

MẸ ĐAU CÙNG CON CÁI MẸ...

Lạy Mẹ Maria, những người con cái của Mẹ đang vô cùng lo lắng và hoang mang... Nỗi đau không chỉ riêng ai, bởi chúng con là những chi thể được hiệp nhất nên một trong Thân Mình Chúa Giêsu - Con của Mẹ. Nên mỗi phần thân thể đau, những phần còn lại cũng đau và người đau đớn nhất là chính Mẹ, bởi Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ Giáo Hội và là Mẹ của mỗi người chúng con. 


Mẹ đã từng đau đớn tột cùng, khi chứng kiến cuộc hành hình của quân dữ đối với Chúa Giêsu Con Mẹ. Những đòn roi quất vào da thịt làm nát tan Chúa Giêsu và gần như không còn hình tượng Ngài nữa... Nỗi đau dâng cao và Mẹ lặng im như ngất lịm, khi chứng kiến Chúa Giêsu bị quân lính lấy lưỡi giáo đâm cạnh nương long con mình. Máu và nước chảy ra...


Giáo Hội Việt Nam, cách riêng Giáo phận Vinh đang có những 'u nhọt' và vỡ ra... Mẹ cũng đang đau đớn khi chứng kiến con cái mình. Mẹ đang bên cạnh, đang nâng đỡ và chở che... dẫu những vết thương sâu hoắm, bám chặt rễ, toang hoác hay bầm dập... Mẹ sẽ bôi thuốc, băng bó và rồi vết thương lại lành... 


Xin Mẹ cầm tay con cái Mẹ và nói: có Mẹ đây, CAN ĐẢM lên các con ĐỪNG SỢ. Hãy để những u nhọt bung lên và vỡ ra... thì rồi sẽ lại lành... Xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con can đảm đối diện sự thật, can đảm trở về với nẻo chính đường ngay, can đảm sống làm chứng cho Tin Mừng để không thỏa hiệp với thế gian... Xin Mẹ gìn giữ môi miệng và lòng trí chúng con, thay vì lên án và kết tội, chỉ có sám hối, khiêm cung và cầu nguyện mà thôi...


|Lm. Paul Ngô Phi

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2023

Chúc thư tinh thần của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức XVI


Toà Thánh đã công bố Chúc thư tinh thần của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI, được đề ngày 29 tháng 8 năm 2006.

 

Chúc thư tinh thần của tôi

 

Vào giờ phút cuối đời này, khi tôi nhìn lại những thập niên tôi đã sống, trước hết tôi thấy mình có rất nhiều lý do để tạ ơn. Trên hết, tôi tạ ơn chính Thiên Chúa, Đấng ban mọi hồng ân tốt lành, đã ban cho tôi sự sống và dìu dắt tôi qua bao thời điểm hỗn loạn; Người đã nâng tôi dậy khi tôi bắt đầu trượt ngã và luôn cho tôi lại được thấy ánh sáng từ dung nhan của Người. Khi nhìn lại, tôi thấy và hiểu rằng ngay cả những đoạn đường tăm tối và gian khổ của hành trình này cũng là vì ơn cứu độ của tôi và rằng Người đã hướng dẫn tôi tận tình trong chính những đoạn đường đó.


Tôi cảm ơn cha mẹ tôi, những người đã cho tôi sự sống trong một thời điểm khó khăn và bằng tình yêu thương, với sự hy sinh lớn lao, đã chuẩn bị cho tôi một ngôi nhà tuyệt vời, như luồng ánh sáng rực rỡ, đã tỏa sáng suốt những ngày đời tôi cho đến ngày hôm nay. Đức tin mạnh mẽ của cha tôi đã dạy anh chị em chúng tôi tin tưởng và đã đứng vững như kim chỉ nam giữa bao tri thức khoa học của tôi; lòng mộ đạo chân thành và lòng tốt bao la của mẹ tôi vẫn là một di sản mà tôi không thể cảm ơn bà cho đủ. Chị  tôi đã chăm sóc tôi một cách vị tha và đầy quan tâm ân cần trong nhiều thập kỷ; anh tôi đã luôn mở đường cho tôi bằng sự sáng suốt trong các phán đoán của anh, bằng quyết tâm mạnh mẽ và bằng tâm hồn vui vẻ của anh; nếu không có điều luôn luôn mới và luôn tiến tới và đồng hành này, tôi đã không thể tìm ra con đường đúng đắn.


Từ tận đáy lòng tôi tạ ơn Chúa vì có rất nhiều bạn bè, nam cũng như nữ, những người mà Người luôn đặt ở bên cạnh tôi; tạ ơn về những người đồng nghiệp ở mọi giai đoạn trên con đường của tôi; về những giáo sư và sinh viên mà Người đã trao cho tôi. Tôi biết ơn tín thác tất cả họ cho lòng tốt của Người. Và tôi muốn tạ ơn Chúa về ngôi nhà xinh đẹp của tôi ở chân đồi ở Bavaria của dãy Alps, nơi tôi có thể nhìn thấy vẻ huy hoàng của chính Đấng Tạo Hóa tỏa sáng hết lần này đến lần khác. Tôi cảm ơn người dân quê hương tôi đã cho tôi được nhiều lần trải nghiệm vẻ đẹp của đức tin. Tôi cầu nguyện để đất nước của chúng ta sẽ mãi là một đất nước của niềm tin và tôi xin quý vị, những người đồng hương thân mến, đừng để niềm tin của quý vị bị lung lay. Cuối cùng, tôi tạ ơn Chúa vì tất cả vẻ đẹp mà tôi có thể cảm nghiệm được trong các giai đoạn khác nhau của cuộc hành trình của tôi, nhưng đặc biệt là ở Rôma và Ý, nơi đã trở thành quê hương thứ hai của tôi.


Từ tận đáy lòng tôi xin tất cả những người mà tôi đã làm điều sai trái cách nào đó tha thứ cho tôi.

Điều tôi đã nói trên đây với các đồng bào của tôi, giờ đây tôi muốn nói với tất cả những ai được ủy thác để tôi phục vụ trong Giáo hội: Hãy vững vàng trong đức tin! Đừng để bị bối rối! Thông thường, có vẻ như khoa học – một mặt là các khoa học tự nhiên; mặt khác, nghiên cứu lịch sử (đặc biệt là chú giải Kinh Thánh) – có những ý tưởng không thể bác bỏ có thể đưa ra những điều trái ngược với đức tin Công giáo. Từ xa xưa, tôi đã chứng kiến những thay đổi trong khoa học tự nhiên và đã thấy những điều rõ ràng chắc chắn chống lại đức tin đã biến mất như thế nào, chứng tỏ chúng không phải là khoa học mà là những diễn giải triết học chỉ có vẻ bề ngoài của khoa học – cũng như, hơn nữa, chính trong đối thoại với khoa học tự nhiên mà đức tin đã học để hiểu giới hạn của điều nó khẳng định và từ đó hiểu tính đặc thù của chính nó. 60 năm nay, tôi đã đồng hành trên con đường thần học, đặc biệt là nghiên cứu Kinh Thánh, và đã chứng kiến những luận điểm dường như không thể lay chuyển được đã sụp đổ cùng với sự thay đổi của các thế hệ, những điều hóa ra chỉ là những giả thuyết: thế hệ tự do (Harnack, Jülicher, v.v.), thế hệ chủ nghĩa hiện sinh (Bultmann, v.v.), thế hệ chủ nghĩa Mác-xít. Tôi đã thấy, và thấy, từ mớ giả thuyết rối rắm, tính hợp lý của đức tin đã xuất hiện và đang xuất hiện trở lại như thế nào. Chúa Giêsu Kitô thực sự là Đường, Sự Thật và Sự Sống – và Giáo Hội, trong mọi khuyết điểm của mình, thực sự là Thân Thể của Người.


Cuối cùng, tôi khiêm tốn xin cầu nguyện cho tôi, để Chúa đón nhận tôi vào nơi cư ngụ vĩnh cửu, bất chấp mọi tội lỗi và khuyết điểm của tôi. Đối với tất cả những người được uỷ thác cho tôi, lời cầu nguyện chân thành của tôi vang lên ngày này qua ngày khác.


VaticanNews Tiếng Việt 01/01/2023

Người Tôi Yêu

Các bạn trẻ thân mến, Là phận nữ nhi, theo lẽ thường tình, lớn lên đến tuổi lấy chồng, ai cũng mong mình có được người bạn trai lý tưởng: Đẹ...