Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2021

NHƯ THẾ NÀY THÌ LÀM SAO...?

Như thế này thì làm sao mà Chúa không thương cơ chứ?

Như thế này thì làm sao mà gia đình không êm ấm hạnh phúc?

Như thế này thì làm sao mà gia đình không tràn ngập yêu thương? 

Như thế này thì làm sao mà vợ chồng không gắn kết keo sơn? 

Như thế này thì làm sao mà phu thê không ý hợp tâm đầu?

Như thế này thì làm sao mà con cái không ngoan ngoãn thảo hiền? 

Như thế này thì làm sao mà Chúa không soi sáng cho biết việc phải làm? 

Như thế này thì làm sao mà mọi người lại không mến không yêu? 

Thiên đàng là đây chứ đâu?

Vậy tại sao chúng ta không học hỏi gia đình này?

Còn chần chờ gì nữa mà không nhanh chân lên?

Hạnh phúc thay gia đình nào biết kính sợ Thiên Chúa và ăn ở theo đường lối của Người.

Gia đình nào càng quỳ gối cúi sâu mình xuống trước mặt Thiên Chúa, gia đình đó sẽ càng dễ vượt qua mọi giông tố bão táp của cuộc đời. 

Gia đình cầu kinh, gia đình an bình.

Gia đình khấn nguyện, gia đình mãn nguyện.

Yêu nhau không phải là nhìn nhau, mà cùng nhau nhìn về một hướng.

Uốn cây từ thuở măng non,

Dạy con cầu nguyện khi còn ngây thơ.

Rồi con sẽ đẹp hơn mơ.

Bình an hạnh phúc niềm vui tràn trề.

Cha mẹ nào con cái nấy. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. 

Một gia đình thực sự khao khát Chúa thì sẽ không cần khát khao bất cứ điều gì khác.

Gia đình ông bà chủ Cà phê Trung Nguyên đẳng cấp giàu có sẽ phải gọi gia đình này bằng “cụ”.

Hỏi có gia đình nào thực sự thành tâm kính sợ Chúa mà bất hạnh không?

Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người tin Chúa bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ.

Gia đình hạnh phúc đích thực không phải là gia đình nhiều tiền lắm của, mà là gia đình đó có Chúa ở cùng.

Có Chúa là có tất cả. Mất Chúa là mất hết.

Giuse Kích

(Chúng ta cùng quyết tâm học hỏi, chia sẻ hình ảnh ấn tượng này và luôn cầu cho nhau).

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2021

Tình Nghĩa Vợ Chồng


Tình anh, em vẫn một lòng

Giữa trọn hôn ước vợ chồng đấy thôi.

Đường dài vui sướng, sầu rơi

Tình yêu đoan hứa trọn đời không phai.

Lời kinh khuya sớm đẹp hoài

Nguyện xin ơn Chúa trải đầy ơn trên.

Trăm năm hạnh phúc vững bền

Thuận chồng thuận vợ dệt nên mái nhà.

Tình em tươi thắm màu hoa

Tình anh đẹp mãi câu ca trong ngần.


Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021

Đôi dòng lịch sử Thứ tư lễ tro

Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng Thứ Tư Lễ Tro, đánh dấu 40 ngày chay tịnh và kiêng thịt. Ngày đầu của Mùa Chay cũng còn gọi là ngày “Bụi Tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán.

Ngày “Bụi Tro” có nguồn gốc từ “Dies Cinerum” trong Sách Lễ Rôma và được tìm thấy trong quyển Sách Lễ Grêgôriô. Tục truyền rằng, vào thời Ðức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590-604) đã bắt đầu nghi thức sức tro trong ngày đầu Mùa Chay.

Trong Cựu Ước, Tro là dấu hiệu của sự khiêm nhường, hối cải và tang chế. Người Kitô Hữu cũng dùng tro trong phụng vụ của ngày Lễ Tro với ý nghĩa trên. Lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết và sự ăn năn được đưa vào phụng vụ Tây Phương vào thế kỷ 10, và được phổ biến rộng rãi khắp Tây Phương tại Công Ðồng Benevento năm 1091.

Thuở xưa, người ta dùng tro để sám hối cách riêng, nhưng sau đó trở thành một nghi thức cộng đồng. Trong sư kiện này, tro được rắc trên đầu hối nhân như một sự hiệp thông cầu nguyện cho những hối nhân trở lại. Cuối cùng, tro được dùng trong nghi thức sám hối của Mùa Chay trong ngày Thứ Tư Lễ Tro.

Có thể không đáng tin rằng, việc sức tro cho tất cả mọi tín hữu phát xuất từ lòng sùng mộ và sự hoán cải giữa cộng đồng của các hối nhân. Thế nhưng, qua dòng thời gian, sự đón nhận này, có tính cách phụng vụ đã tượng trưng đặc thù cho việc sám hối. Việc sức tro này, được Công Ðồng Benevento năm 1091 đề nghị cho mọi giới; giáo sĩ cũng như giáo dân. Thế nhưng, cả trăm năm trước đó người Tây Phương đã dùng nghi thức sức tro này rồi.

Dấu Thánh Giá được ghi trên trán là tượng trưng cho dấu linh thiêng hoặc ấn tín mà người Tín Hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Ðây là dấu chỉ của trẻ sơ sanh được tái sinh trong niềm tin Kitô qua sự giải phóng khỏi nô lệ tội lỗi và xấu xa, rồi được nhập vào hàng con cái Thiên Chúa hằng sống. (Rom. 6:3-18)

Việc lãnh tro cũng được coi như là sự trở về trong vinh quang mà đã được diễn tả trong Sách Khải Huyền, khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa. Sách Tiên Tri Edzêkien cũng nhắc đến ấn tín được làm con cái Thiên Chúa, “Hãy rảo khắp thành, khắp Giêrusalem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành.” (Ed 9:4)

(Nguồn: tinmung.net)

SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2021 CỦA ĐGH PHANXICÔ



“Nào chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20,18)

Mùa Chay: Thời gian canh tân Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ ý nghĩa sâu sắc nhất trong sứ vụ của Người khi loan báo cho họ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người để hoàn thành Thánh ý Chúa Cha. Sau đó, Ngài mời gọi họ chia sẻ sứ mạng này để cứu độ thế giới.

Trong hành trình Mùa Chay hướng về Phục Sinh, chúng ta hãy nhớ đến Đấng đã “hạ mình và vâng phục cho đến chết, và chết trên cây thập tự” (Phi 2:8). Trong suốt mùa hoán cải này, chúng ta hãy canh tân đức tin của chúng ta, kín múc “nước hằng sống” của niềm hy vọng, và mở lòng đón nhận tình yêu Chúa, là Đấng đã làm cho chúng ta trở nên anh chị em trong Chúa Kitô. Vào đêm Canh thức Vượt qua, chúng ta sẽ lặp lại những lời hứa trong Bí tích Rửa tội và trải nghiệm sự tái sinh như những con người mới nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Hành trình Mùa Chay này, cũng như toàn bộ cuộc lữ hành của cuộc đời Kitô hữu, ngay lúc này đã được soi sáng bởi ánh sáng phục sinh, là điều linh hứng những suy nghĩ, thái độ và quyết định của các môn đệ Chúa Kitô.

Ăn chay, cầu nguyện và bố thí, như Chúa Giêsu đã dạy bảo chúng ta (x. Mt 6,1-18), giúp chúng ta hoán cải và thể hiện sự hoán cải của chúng ta. Con đường khó nghèo và từ bỏ chính mình (ăn chay), quan tâm và yêu thương chăm sóc người nghèo (bố thí), và trò chuyện như trẻ thơ với Chúa Cha (cầu nguyện) giúp chúng ta có thể sống đức tin chân thành, đức cậy sống động và đức ái hiệu quả.

1. Đức tin mời gọi chúng ta chấp nhận sự thật và làm chứng cho sự thật trước Thiên Chúa và trước tất cả anh chị em mình.

Trong Mùa Chay này, chấp nhận và sống sự thật được mặc khải trong Chúa Kitô có nghĩa trước hết là mở rộng tâm hồn trước Lời Chúa mà Giáo hội đã truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Sự thật này không phải là khái niệm trừu tượng dành riêng cho một số người thông thái được tuyển chọn. Trái lại, đó là một sứ điệp mà tất cả chúng ta có thể nhận lãnh và hiểu biết nhờ vào sự khôn ngoan của một tâm hồn biết mở rộng ra trước sự vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta ngay cả trước khi chúng ta nhận thức được điều này. Chính Chúa Kitô là sự thật này. Bằng cách mặc lấy thân phận con người của chúng ta, ngay cả trong những giới hạn của nó, Người đã làm cho chính mình trở thành con đường - tuy có nhiều đòi buộc nhưng mở ra cho tất cả mọi người - và dẫn họ đến sự sống viên mãn.

Khi được trải nghiệm như một hình thức từ bỏ chính mình, chay tịnh sẽ giúp cho những ai thực hành với tâm hồn đơn sơ tái khám phá ân sủng Chúa và nhận ra rằng chúng ta, những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Người và giống với Người, chỉ tìm được sự viên mãn của mình nơi Thiên Chúa. Khi chấp nhận trải qua sự khó nghèo, chay tịnh làm cho chính mình trở nên nghèo với người nghèo và tích lũy kho báu của một tình yêu vừa đón nhận vừa chia sẻ. Như thế, chay tịnh giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, vì yêu mến, như Thánh Tôma Aquinô dạy, là một chuyển động hướng ngoại tập trung những chú ý của chúng ta vào người khác và xem họ như một với chính mình (x. Fratelli Tutti, 93).

Mùa Chay là thời gian để tin tưởng, để đón tiếp Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta và để cho Người “cư ngụ” với chúng ta (x. Ga 14,23). Chay tịnh giải thoát chúng ta khỏi tất cả những gì đè nặng lên cuộc đời chúng ta, như chủ nghĩa tiêu thụ hay tình trạng thừa mứa thông tin cả thông tin thật lẫn thông tin giả - để chúng ta có thể mở lòng ra với Đấng đến với chúng ta, khó nghèo trong mọi sự nhưng “đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14): Đó là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta.

2. Niềm hy vọng như “nước hằng sống” cho phép chúng ta tiếp tục hành trình

Người phụ nữ xứ Samaritanô mà Chúa Giêsu xin nước uống bên giếng đã không hiểu khi Chúa Giêsu nói rằng Người có thể cho bà “nước hằng sống” (Ga 4,10). Bà nghĩ một cách thường tình rằng Người đề cập đến nước vật chất, nhưng Chúa Giêsu có ý nói về Thánh Linh Thiên Chúa, mà Người sẽ ban dư dật qua mầu nhiệm Vượt qua, mang đến niềm hy vọng không gây thất vọng. Khi loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Người, Chúa Giêsu đã nói về niềm hy vọng này: “ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,19). Chúa Giêsu đang nói về một tương lai rộng mở nhờ lòng thương xót của Chúa Cha. Hy vọng với Người và vì Người có nghĩa là tin rằng lịch sử không kết thúc với những lầm lỗi của chúng ta, với những bạo lực và bất công của chúng ta, hay với tội ác đã đóng đinh Đấng là Tình Yêu. Niềm hy vọng đó có nghĩa là đón nhận từ trái tim rộng mở của Người ơn tha thứ của Chúa Cha.

Trong những thời khắc gian nan này, khi mọi việc có vẻ mong manh và bấp bênh, nói về hy vọng xem ra là một thách đố. Nhưng Mùa Chay chính là mùa hy vọng, khi chúng ta quay trở lại với Thiên Chúa là Đấng vẫn tiếp tục nhẫn nại chăm sóc thụ tạo của Người, mà chúng ta thường xuyên ngược đãi (x. Laudato sí, 32-33; 43-44). Thánh Phaolô thúc giục chúng ta đặt niềm hy vọng nơi việc hòa giải: “Hãy giao hòa với Thiên Chúa” (2 Cor 5,20). Khi đón nhận ơn tha thứ trong bí tích trọng tâm quá trình hoán cải của chúng ta, đến lượt mình, chúng ta có thể lan truyền ơn tha thứ cho người khác. Một khi chính chúng ta đã nhận được ơn tha thứ, chúng ta có thể trao ban sự thứ tha qua việc sẵn sàng bước vào cuộc đối thoại ân cần với người khác và an ủi những người đang trải qua những buồn đau. Ơn tha thứ của Thiên Chúa, được trao ban qua lời nói và hành động của chúng ta, có thể giúp chúng ta trải nghiệm một lễ Phục sinh của tình huynh đệ.

Trong Mùa Chay, cầu mong chúng ta quan tâm nhiều hơn với việc “nói những lời tích cực để vỗ về, hỗ trợ, an ủi và khích lệ chứ đừng nói những lời miệt thị, bi quan, giận dữ hay chê bai” (Fratelli Tutti, 223). Để trao ban hy vọng, đôi khi chỉ cần tử tế một chút, “sẵn sàng dẹp qua một bên những thứ khác ngõ hầu cho thấy sự lưu tâm đến người khác, trao tặng một nụ cười, nói một lời khích lệ, lắng nghe giữa một tình trạng dửng dưng phổ biến” (nt., 224).

Qua việc tĩnh tâm và thinh lặng cầu nguyện, hy vọng được trao ban cho chúng ta như một sự linh hứng và một ánh sáng nội tâm, soi sáng những thách đố và những chọn lựa trong sứ vụ của chúng ta. Vì thế, chúng ta cần cầu nguyện (x. Mt 6,6), và cầu nguyện trong thanh vắng, để gặp gỡ Cha đầy tình yêu dịu dàng.

Sống Mùa Chay trong hy vọng bao gồm việc nhận thức ra rằng, trong Chúa Giêsu Kitô, chúng ta là những chứng nhân của thời đại mới, trong đó Chúa “đổi mới mọi sự” (x. Kh 21,5). Sống Mùa Chay trong hy vọng là đón nhận niềm hy vọng của Chúa Kitô, Đấng đã trao ban sự sống của Người trên thánh giá và được Thiên Chúa cho sống lại vào ngày thứ ba, và “luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).

3. Biểu hiện cao nhất của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta là yêu mến, quan tâm và thương cảm mọi người theo bước Chúa Kitô.

Tình yêu vui mừng khi thấy người khác lớn lên. Vì thế, tình yêu đau buồn khi người khác đau khổ, cô đơn, bệnh tật, vô gia cư, bị xem thường hoặc thiếu thốn. Tình yêu là bước nhảy vọt của con tim, đưa chúng ta ra khỏi chính mình và tạo nên những mối liên kết chia sẻ và hiệp thông.

“Tình yêu xã hội giúp chúng ta có khả năng tiến tới nền văn minh tình yêu, trong đó mọi người chúng ta đều cảm nhận mình được mời gọi. Nhờ sức năng động phổ quát, tình yêu có khả năng xây dựng một thế giới mới. Tình yêu không chỉ đơn thuần là cảm thức, nhưng còn là một phương thế tốt nhất để khám phá những con đường phát triển hữu hiệu cho mọi người” (Fratelli Tutti, 183).

Tình yêu là món quà mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhìn những người túng quẫn như những thành viên trong gia đình mình, như bạn bè, như anh chị em. Một số lượng ít ỏi, nếu được trao ban bằng tình yêu, sẽ không bao giờ cạn nhưng trở nên nguồn sống và hạnh phúc. Như trường hợp hũ bột và bình dầu của bà góa thành Xarépta, l2 là người đã làm một chiếc bánh cho tiên tri Êlia (x. 1 V 17,7-16); đó cũng là trường hợp những chiếc bánh được Chúa Giêsu chúc lành, bẻ ra rồi trao cho các môn đệ để phân phát cho đám đông (x. Mc 6,30-44). Đó cũng là trường hợp khi chúng ta bố thí, dù ít hay nhiều, khi chúng ta trao ban với niềm vui và sự đơn sơ.

Sống Mùa Chay với tình yêu nghĩa là quan tâm tới những người đau khổ hay cảm thấy bị bỏ rơi hay sợ hãi vì đại dịch Covid-19. Trong những ngày đầy bất định về tương lai này, chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa nói với Người Tôi Trung: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về” (Is 43,1). Trong đức ái của chúng ta, cầu mong cho chúng ta biết nói lên những lời trấn an và giúp người khác nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương họ như những con cái của Người.

“Chỉ có cái nhìn được tình bác ái biến đổi mới có thể giúp chúng ta nhận ra phẩm giá của người khác, và từ đó người nghèo được nhìn nhận, phẩm giá, bản sắc và văn hóa của họ được tôn trọng và do đó được thực sự hòa nhập vào xã hội” (Fratelli Tutti, 187).

Anh chị em thân mến! Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và chia sẻ của cải, giúp chúng ta - trong tư cách là các cộng đồng và từng cá nhân – làm sống lại đức tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng từ hơi thở của Chúa Thánh Thần, và tình yêu tuôn đổ từ trái tim giàu lòng thương xót của Chúa Cha.

Nguyện xin Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế, Đấng luôn trung thành đứng dưới chân thánh giá và ở trong lòng Giáo Hội, nâng đỡ chúng ta bằng sự hiện diện từ ái của Mẹ. Nguyện xin phúc lành của Chúa Phục Sinh đồng hành với chúng ta trong hành trình hướng về ánh sáng Phục Sinh.

Rôma, Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 11 tháng 11 năm 2020, Lễ nhớ Thánh Mactinô thành Tua.

+ Đức Thánh Cha Phanxicô

Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An


Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2021

Chuyện Vuông Tròn

 Đã qua một năm đầy biến động, nhất là đại dịch corona. Tất cả là hồng ân. Dù sao thì con người cũng có dịp nhìn lại chính mình và ý thức hơn về nhiều thứ, đặc biệt là vấn đề tâm linh. Đau khổ lúc nào cũng có, chúng ta tạm gác lại mọi lo toan hoặc sợ hãi để tận hưởng thời gian đầu năm.

Đón Xuân, ăn Tết mà nói chuyện hình Vuông và hình Tròn, xem chừng “việt vị” vì có vẻ chẳng “ăn nhập” gì. Thế nhưng lại không phải như vậy đâu, vì có liên quan Đất Trời.

Thật kỳ lạ, hình vuông và hình tròn được coi là hai hình hoàn hảo nhất trong các hình. Thời xưa, những đồng tiền kẽm lưu hành trong triều Nguyễn có hình dáng mang ý nghĩa của Càn Khôn. Đồng tiền kẽm hình tròn, chính giữa có lỗ hình vuông, bốn góc có bốn chữ nho nằm bên mỗi cạnh hình vuông, còn để xỏ dây xâu vào cho tiện.

Đồng tiền xưa có hình tròn, bên trong có lỗ hình vuông, có vẻ không “khớp” nhau nhưng vẫn lô-gích. Người ta cũng chúc các thai phụ được “mẹ tròn, con vuông,” ý nói được an toàn khi sinh nở, mẹ con đều khỏe mạnh. Thai hình tròn tức là “mẹ tròn,” con ra đời khỏe mạnh tức là “con vuông.” Khi nói về điều gì tốt lành, xuôi xắn, trung thành,… người ta cũng dùng hình vuông và hình tròn để nói. Ví dụ: “Sống sao cho vuông tròn trước sau.”

Khi nói về chuyện trăm năm, cụ Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.” (câu 1331-1332) “Cuộc vuông tròn” ở đây là chuyện hôn nhân, chuyện cả đời, phải suy hơn tính thiệt, không thể “nhắm mắt đưa chân.”

Nếu đem cách nói “vuông, tròn” của người Việt mà dịch nguyên văn ra ngoại ngữ, nhất là các ngôn ngữ Tây phương, hẳn là rất khó truyền đạt đầy đủ ý nghĩa “tốt lành” của nó đến người nghe. Đơn giản là người Tây phương không có chung khái niệm về văn hóa và triết lý với Việt Nam. Đối với họ, khái niệm “vuông tròn” không mang một ý nghĩa hòa hợp, thậm chí còn không thể dung nạp nhau. Về phương diện kỷ hà học, đó là những hình thể khác hẳn nhau. Nếu đặt cạnh nhau chỉ gợi ra ý tương phản, không “khớp” với nhau.

Nghịch lý đó vẫn có ý nghĩa tích cực khả dĩ giải thích. Hẳn là điều đó bắt nguồn từ khái niệm cơ bản xuất phát từ dân gian, được người đời chấp nhận như các yếu tố cấu thành tốt đẹp. Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu đậm từ “tam giáo” (Phật, Lão, Khổng) hiện hữu lâu đời trong đời sống dân chúng. Ảnh hưởng tiềm ẩn trong nền nếp sinh hoạt, trong ngôn ngữ dân gian, thấm vào da thịt, và lưu chuyển trong huyết quản người Việt. Luật “nhân quả” theo Phật thuyết được chấp nhận như một tiền đề của nhiều quan niệm sống trong dân gian. Do đó, từ những nhân tố được thừa nhận là tốt đẹp dẫn đến yếu tố tốt lành theo luật nhân quả như lẽ tất nhiên: “Cây nào quả nấy,” “rau nào sâu nấy,” “cha nào con nấy,” hoặc “thầy nào trò nấy.”

Nhưng trong văn hóa Việt Nam, hình vuông và tròn đi đôi trong nhiều trường hợp, chúng gắn liền với nhau để biểu thị cho sự kết hợp thuận lẽ trời, và tạo kết quả tốt lành. Khái niệm vuông tròn dựa trên chứng cứ đầu tiên từ sự tích bánh chưng và bánh giày. [1]

SỰ TÍCH

Chuyện xưa kể rằng, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại và bảo: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi vua cho.” Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng được ngự trên ngai vàng.

Khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương là Tiết Liêu [2] bản tính hiền hậu, đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Hoàng tử nghĩ rằng chẳng thà không được làm Thái tử, chứ bỏ cha mẹ không người thần hôn định tỉnh, lòng Hoàng tử không đành. Không rời cha mẹ, nhưng Hoàng tử cũng không dám trái lời Vua cha, vẫn nghĩ tìm của ngon vật lạ để dâng tiến Vua cha và Hoàng hậu khi kỳ hạn tới. Và lòng hiếu của Hoàng tử đã động tới thần linh.

Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, tượng trưng Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng trưng Cha Mẹ sinh thành.”

Tiết Liêu tỉnh dậy và vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng trưng Đất, bỏ vào chõ chưng chín, gọi là Bánh Chưng. Ông giã xôi làm bánh tròn, tượng trưng Trời, gọi là Bánh Giày. Còn lá xanh bọc ngoài và nhân trong ruột bánh tượng trưng cha mẹ luôn yêu thương và đùm bọc con cái.

Đến ngày hẹn, các Hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm. Có đủ sơn hào hải vị, nhiều món ngon. Hoàng tử Tiết Liêu chỉ có bánh giày và bánh chưng. Vua Hùng lấy làm lạ nên hỏi, Tiết Liêu thuật lại chuyện Thần linh báo mộng, đồng thời giải thích cho Vua cha về ý nghĩa của bánh giày và bánh chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon và khen ngợi về ý nghĩa.

Vua cha rất hài lòng bảo Hoàng hậu: “Các sơn hào hải vị của các Hoàng tử khác, tuy ngon nhưng duy chỉ một mình ta được hưởng, còn hai thứ bánh chưng và bánh giày, làm bằng gạo của Trời Đất sinh ra, ta chỉ việc phổ biến cách làm là toàn dân đều được thưởng thức cái ngon có ý nghĩa của bánh.” Thế là Vua cha bèn truyền ngôi cho Tiết Liêu.

Tết năm đó, nhà Vua dùng ngay bánh chưng bánh giày làm đồ lễ cúng Trời Đất, và cũng truyền dạy cho nhân dân cách làm bánh để dùng trong việc cúng tế. Từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, dân chúng đều làm bánh chưng và bánh giày để tế Trời Đất và cúng Tổ tiên.

Ý NGHĨA

Bánh giày và bánh chưng tượng trưng Trời Đất, mang ý nghĩa nguồn gốc sự sống. Trời là Cha, Đất là Mẹ – song thân tạo nên chúng ta. Khi gặp nguy biến hoặc đau khổ, người ta nghĩ ngay đến song thân Phụ Mẫu. Có khi chúng ta gọi Trời: “Trời ơi!” có khi gọi cả Trời và Đất: “Trời Đất ơi!” có khi gọi Cha Mẹ: “Cha Mẹ ơi!” có khi gọi cả Trời đất và Cha Mẹ: “Trời Đất, Cha Mẹ ơi!”

Trong vũ trụ quan của người Á Đông, khái niệm vuông tròn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm Dương. Trong kiến trúc Đông phương, bao giờ cũng là những đường nét pha trộn Âm và Dương. Ngoài những đường thẳng cần thiết phải có, bao giờ người ta cũng đưa vào thêm những đường cong và vòng tròn, tạo nên một tổng-thể-hài-hòa-Âm-Dương. Mái ngói cong, cửa sổ tròn, đó là cách kết hợp tạo sự hài hòa Âm Dương. Trong kiến trúc Tây phương ít khi có những đường nét như vậy.

Hình tròn còn tượng trưng Âm tính, hình vuông tượng trưng Dương tính. Sự kết hợp hài hòa Âm Dương được xem là một kết hợp thuận tự nhiên. Sự kết hợp đó luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp. Đó là một “khái niệm thiện.” Người Việt có câu tục ngữ: “Đầu tròn, gót vuông.” Theo Đông y, cơ thể con người nửa phần trên, tận cùng là cái đầu mang tính Âm (đầu tròn). Phần dưới tận cùng là đôi chân mang tính Dương (gót vuông). Khi khám bệnh, thầy thuốc sờ đầu và sờ chân, thấy đầu mát (Âm) và chân ấm (Dương) là tốt vì thuận Âm Dương, không đáng lo. Ngược lại (đầu ấm, chân mát) là bất ổn. Nên giữ đầu mát và đôi chân ấm thì sẽ khỏe mạnh. Triết lý của người Á Đông hay thật!

Nếu hình vuông đứng một mình thì chỉ là vuông, nếu hình tròn đứng một mình thì chỉ là tròn. Nhưng kết hợp hình vuông và hình tròn sẽ tạo khái niệm về Trời Đất, Âm Dương hài hòa, mang tính thiện, luôn trường cửu.

Bánh chưng và bánh giày là các loại bánh truyền thống của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tiền nhân và Đất Trời. Bánh chưng hình vuông và màu xanh, tượng trưng cho Đất; bánh giày hình tròn và màu trắng, tượng trưng cho Trời. Điều đó thể hiện triết lý Âm Dương, biện chứng Đông phương – nói chung, và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam – nói riêng. Bánh giày là Dương dành cho Cha, bánh chưng là Âm dành cho Mẹ. Bánh chưng và bánh giày thể hiện nghĩa cử “uống nước nhớ nguồn,” nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục bao la như Trời Đất của Cha Mẹ.

Sự tích bánh chưng và bánh giày cho thấy lòng hiếu thảo (một trong những tính thiện của con người) của Hoàng tử thứ tư đã làm Thần Linh cảm kích mà chỉ dạy cách sử dụng hạt gạo quý giá như ngọc để làm món ăn ngon dâng Vua cha. Lòng yêu dân thương nước của Vua Hùng đã làm cho món ăn quý giá này được đời đời lưu truyền. Điều đó cho thấy rằng những gì thuận ý Trời, theo “tính bổn thiện” mà Trời ban cho con người thì trường tồn bất biến – dù hoàn cảnh có biến đổi.

Chắc chắn rằng bất cứ điều gì không thuận ý Trời như gian tà, độc ác, ích kỷ, đố kỵ,… thì sẽ bị tiêu diệt. Lịch sử thế giới, từ cổ chí kim,  đã và đang chứng minh chân lý bất biến: “Thiện luôn thắng ác.” Nơi nào có ánh sáng, nơi đó không thể có bóng tối.

TƯ DUY TÂM LINH

Hoàng tử Tiết Liêu chẳng thà không được làm Thái tử, chứ không đành bỏ mặc cha mẹ. Con người này quả là người nhân đức, đủ bản lĩnh nội tâm. Những con người biết sống vì người khác, không tham quyền cố vị, không kèn cựa tranh giành, không ích kỷ, không tham lam, không chuộng bề ngoài, chỉ một mực thể hiện đức yêu thương, chắc chắn cuộc sống luôn thanh thản và bình an. Một tấm gương sáng ngời cho chúng ta noi theo.

Kinh thánh xác định: “Tất cả chỉ là phù vân,” (Gv 1:2) và biết chắc khi chết thì ai cũng “buông xuôi tay trắng,” thế mà người ta và giành giật nhau từng chút, ngay cả miếng ăn cũng vậy, kém một chút là “khó chịu ra mặt.” Khốn nạn thật!

Về quyền hành, Chúa Giêsu nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9:35) Thế nhưng thực tế khác hẳn, thậm chí là trái ngược, ngay cả trong tôn giáo cũng chẳng khá hơn. Và còn bao chuyện đời khác nữa mà Đức Kitô đã mạnh mẽ lên án gắt gao!

Thiên Chúa là Đấng tạo dựng Trời và Đất, Ngài có quyền trên tất cả mọi sự. Khi nói về chuyện thề thốt, Chúa Giêsu có nhắc tới Trời và Đất, đồng thời khuyến cáo: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả.” (Mt 5:34-35)

Chúa Giêsu cũng nhắc tới Đầu: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5:34-37) Quá minh nhiên!

Chúa Giêsu còn nói thẳng thừng hơn: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời.” (Mt 18:8) Cách nói chân thật của Ngài luôn khiến chúng ta cảm thấy “nghịch nhĩ.” Nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, chúng ta học mãi mà chưa thông, chưa khôn, chưa can đảm!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống vuông tròn với Ngài và với tha nhân. Xin chúc lành và gìn giữ chúng con trong năm mới này, xin giúp chúng con luôn mau mắn thi hành Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

[1] Chưa thống nhất cách viết, có khi viết là bánh Giày hoặc Dày. Bánh này không dày nên chắc không là bánh Dày. Ngày xưa, khi giã bột làm bánh, người ta thường đi ủng (giày) để giã, thế nên rất có thể đúng là bánh Giày.

[2] Còn gọi là Lang Liêu, Lang Lèo.

[Đăng báo ĐMHCG số 414, tháng 02-2021, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ] 

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2021

Mồng 2 Tết: Đừng tính toán với Thiên Chúa, với mẹ cha!

Ngồi trong xe trên đường về nhà, câu chuyện của chúng tôi xoay quanh câu hỏi: “Con người có nên tính thiệt hơn với Thiên Chúa?” Số là có nhiều người tính làm sao để đi lễ mà không tốn nhiều giờ. Họ căn thời gian làm sao để “cha vừa bước ra là mình vào nhà thờ, cha vừa vào phòng áo là mình ra khỏi nhà thờ.” Đại khái là mình “khôn ngoan” để thánh lễ không thiếu, không thừa phút nào. (Thật tội cho họ vì nghĩ đến thời gian mà quên mất Thiên Chúa là chúa tể thời gian!)

Anh bạn chuyển sang đề tài về chuyện nhiều người mẹ mới sinh, không biết luật Giáo hội cho phép họ khỏi phải đến nhà thờ đến khi nào; hoặc con lên mấy tháng tuổi thì phải đưa trẻ đến nhà thờ? Nhiều người tính toán để làm sao mình không phạm luật Giáo hội. Tệ hơn, có người còn chê trách những ai đưa con đi nhà thờ từ thuở còn thơ! Ở nhà có phải sướng hơn cho mình và cho con không? Vả lại, Thiên Chúa đâu đòi “bà mẹ bỉm sữa” phải đi nhà thờ!  

Cắt ngang câu chuyện trên, một linh mục kể cho nhóm câu chuyện thú vị liên quan đến người anh của mình. Chuyện xảy ra trong những năm cha mẹ vị ấy ở tuổi gần đất xa trời, cần người chăm sóc. Vì sứ mạng, linh mục này không thể về nhà chăm sóc cho cha mẹ mình được. Những người con khác thì nại vào công ăn việc làm, và thực ra họ cũng không đủ quảng đại để phục vụ cha mẹ già nua trong những năm tháng còn lại. Chỉ có bác Hai là người can đảm nhận phần vụ này.

Thực ra lúc đầu bác Hai cũng trăn trở nhiều lắm, phần vì bác phải nuôi sống gia đình, phần vì bản thân phải chăm lo mấy mẫu cà phê. Làm sao vừa chu toàn được nhiệm vụ gia đình, vừa đảm nhận việc phụng dưỡng cha mẹ? Sau nhiều ngày suy nghĩ, bác Hai đã quyết định bán rẫy cà phê để có nhiều thời gian ở bên cha mẹ hơn. Đó là một quyết định mạo hiểm vì nó ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đình bác. Về sau, bác giải thích là: “Mình không thể tính toán thiệt hơn với cha mẹ được. Cha mẹ sinh ra mình, con cái trách nhiệm với cha mẹ là điều đương nhiên.”  

Thực ra đó chỉ là lý do bên ngoài. Trong sâu thẳm, bác Hai tin rằng Thiên Chúa có đủ quyền năng để sắp xếp những phần còn lại. Nếu mình sống hiếu thảo thì ông bà tổ tiên cũng sẽ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa. Bác ý thức rất rõ: “Hiếu thảo là luật Chúa dạy con người phải yêu mến, vâng phục và có trách nhiệm với cha mẹ về vật chất lẫn tinh thần.”[1] Bác đã cầu nguyện rất nhiều và xác tín vào lựa chọn của mình. Trong cương vị người con, bác tìm được niềm vui khi ở bên mẹ yếu cha già. Trong cương vị người Kitô hữu, bác được Thiên Chúa mời gọi chu toàn điều răn thứ tư (thảo kính cha mẹ). Đối với bác thì yêu mến cha mẹ không phải là từ ngữ nói trên môi miệng, nhưng là hành động cụ thể. Nhờ đó, bác chưa bao giờ tính toán thiệt hơn với cha mẹ của mình. Dòng họ nhìn vào, Thiên Chúa nhìn xuống, các con nhìn lên, ai cũng thấy bác là người tuyệt vời trong nhân đức lẫn việc làm.

Có lẽ món quà lớn nhất mà Thiên Chúa trao cho bác chính là hạnh phúc từ những người con. Trước đây, các con của bác không hẳn là những người ngoan hiền chăm chỉ hoặc đạo hạnh giỏi giang. Tuy vậy, với tấm gương sống động của bố, tâm hồn các con được biến đổi theo năm tháng. Các con sửa nết đổi tính, quyết chí làm ăn. Mỗi đứa đều học theo tấm gương của bố mà bước vào đời. Bây giờ đứa nào cũng thành đạt, hạnh phúc bên gia đình và tiếp tục nhìn bố với sự ngưỡng mộ.

Có lần bác chia sẻ: “Nếu ngày ấy tôi không bán rẫy về chăm sóc cho ba mẹ, chưa chắc tôi có được những người con, người cháu như ngày hôm nay! Tất cả là hồng ân!” – Bác nói trong xúc động. Đúng là “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em.” (Lc 6,38) Bác đã có lý khi xác tín rằng: “Thiên Chúa chưa bao giờ thua lòng quảng đại của con người. Ngài cũng chẳng quên những gì con người làm cho Chúa, cho tha nhân. Đừng tính toán thiệt hơn với Thiên Chúa.”

Bạn thân mến,

Vài câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy một chân lý này: “Nếu làm điều tốt lành, Thiên Chúa luôn ban lại nhiều hồng ân.” Chúng ta tin Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là Đấng Toàn Năng quan phòng mọi sự. Dù bất cứ suy nghĩ hoặc hành động nào của chúng ta, Ngài đều thấy rõ, đều nhớ hết. Xin đừng qua mặt Chúa hoặc giành phần tốt nhất về cho mình theo kiểu thế gian! Nếu chúng ta dành cho Chúa thêm vài phút trước và sau thánh lễ, chắc chắn Thiên Chúa cũng sẽ dành cho chúng ta thêm nhiều thời gian hạnh phúc cho mình và cho gia đình mình. Nếu ai can đảm lựa chọn điều đẹp lòng Thiên Chúa, hẳn là Thiên Chúa hằng ở với người ấy trọn đời. Nếu ai quảng đại với Thiên Chúa và với con người, cuộc sống người ấy sẽ được biến đổi. Nếu người nào sống hào sảng, cho đi mà không tính toán, rộng lượng với người khác, thì Thiên Chúa ban cho họ rất nhiều điều không thể lượng định bằng tiền.

Thi hào Tagore kể lại một câu chuyện đầy ý nghĩa như sau. Có lần nhà vua đi qua làng nọ, thấy anh hành khất ngồi bên đường. Nhà vua bước xuống xe để xin người hành khất bố thí. Anh này ngạc nhiên hết sức, bởi vì anh là người cần phải xin nhà vua bố thí, đằng này nhà vua lại ngửa tay xin anh. Anh móc trong túi một hạt thóc và trịnh trọng đặt nó vào tay Đức Vua. Chiều đến, khi về tới nhà, người hành khất mới mở chiếc bị của mình ra. Lạ lùng thay, giữa muôn hạt thóc, anh nhận ra một viên vàng ròng óng ánh có kích cỡ và hình dạng đúng bằng hạt thóc anh đã cho Đức Vua trước đó. Lúc bấy giờ, người hành khất mới khóc nức nở hối tiếc: “Phải chi ta đã cho Đức Vua tất cả những gì ta có…!”

Quảng đại là dám cho đi những gì mình có, thậm chí là những điều quý giá nhất đối với mình. Đó là nhân đức giúp người ta biết bao dung đón nhận, sẵn sàng sẻ chia và thành tâm giúp đỡ người khác. Với nhiều người, đó là mất mát hay thiệt thòi có thể thấy được trước mắt. Nhưng họ đâu biết rằng đằng sau đó là biết bao ân sủng Thiên Chúa âm thầm trao ban lại cho người sống quảng đại.

Để kết thúc, không biết bạn có đồng ý với tôi điều này không, đó là nếu cứ tính toán giành phần hơn về cho mình, có khi chúng ta sẽ được lợi trong ngắn hạn, nhưng chắc chắn sẽ mất mát trong dài hạn. Ngược lại, nếu chấp nhận dâng cho Chúa những mất mát trước mắt để chọn làm theo ý Chúa thì người ta sẽ nhận lại được gấp trăm gấp ngàn. Điều quan trọng nhất đó là món quà của Thiên Chúa sẽ theo họ đến suốt đời. Nếu cha mẹ sống nhân đức, tin yêu nơi Chúa, thì đời con cháu sẽ hưởng phần gia nghiệp lớn lao. Đó là đạo hiếu, là lời dạy của ông bà, là nét đẹp truyền thống của người Việt[2], vốn được Thiên Chúa khuyến khích, khuyên răn: thảo kính cha mẹ.

Lạy Thiên Chúa hằng yêu thương con người, Ngài dạy chúng con thảo kính cha mẹ. Thật may cho dân Việt chúng con là tinh thần ấy đã thấm đượm trong văn hóa Việt. Do đó, trong những ngày năm mới này, chúng con cùng với Chúa Xuân hướng về ông bà tổ tiên, về cha mẹ. Xin giúp chúng con đừng bao giờ tính toán thiệt hơn với ông bà cha mẹ, với Thiên Chúa! Được như thế, chúng con luôn có mùa xuân hạnh phúc trong cuộc đời bên Chúa và bên gia đình. Amen.

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

………….

[1] X. mục “Hiếu Thảo” trong: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Từ Điển Công Giáo, Xnb Tôn Giáo, 2016.

[2] https://sjjs.edu.vn/en/tho-kinh-ong-ba-to-tien-gia-tri-van-hoa-phong-tuc-tap-quan-cua-nguoi-viet-lien-he-voi-viec-truyen-giao/

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2021

NGƯỜI CÔNG GIÁO TRONG DỊP TẤT NIÊN



Từ giữa cuối tháng chạp là lúc mọi người mọi nhà chộn rộn chuẩn bị đón xuân. Đây là lúc các công ty, đoàn thể, thôn xóm… cúng tất niên. Hình thức cúng tất niên là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt được lưu truyền từ nhiều đời nay và phổ biến rộng rãi khắp mọi miền đất nước.
Theo tín ngưỡng dân gian, nơi ở, nơi làm việc đều có một vị thần canh giữ để mọi người cư ngụ sinh sống và làm việc ở đó được bình an. Cuối năm là dịp tạ ơn trời đất đã gìn giữ thôn xóm, nơi ở, chỗ làm ăn… được bình yên trong một năm qua. Dù nghèo hay giàu, dù vất vả hay sung túc thì tất cả đều phải cúng. Đó là một niềm tin đã ăn sâu trong tiềm thức của con Rồng cháu Tiên. Có những nơi cúng tất niên đơn sơ nhưng cũng có những nơi cúng rất hoành tráng, họ còn mời cả các thầy cúng, các sư về niệm kinh… Có những thôn xóm hay công ty, ngoài việc bày biện ra cúng, họ còn nhờ một người Kitô hữu trong đó xin lễ tạ ơn. Tất cả trong tâm linh của mỗi người Việt đều cầu xin ơn trên để được phù hộ và được bình an.
Người công giáo chúng ta là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng đó. Chắc rằng các hộ gia đình, các nhân viên hay thành viên người công giáo trong tập để đó đều được mời gọi đóng góp, tham gia và có trách nhiệm cụ thể trong việc cúng tất niên.

Trong niềm tin Kitô giáo, các giáo hữu chỉ được phép tôn thờ một Chúa, là Đấng Duy Nhất, là Chủ Thể Trời Đất, mà một cách nào đó người lương dân hay gọi là Trời, ông Trời. Việc thờ cúng các thần linh khác thì không được phép và trái với luật Chúa dạy.

Vậy, chúng ta phải làm gì và có thái độ thế nào đây!? Mỗi người Kitô hữu phải hòa nhập với cộng đồng, phải giao tiếp và chung sống chan hòa với những người xung quanh chứ không phải là “người ngoài cuộc”. Chúng ta không được trực tiếp chủ động cúng bái cầu xin các thần linh nhưng phải có trách nhiệm đóng góp, vẫn có thể phụ giúp dọn dẹp và cùng ăn uống chung vui với mọi người trong cộng đồng mình sinh hoạt. Đấy là tình làng nghĩa xóm, tình đồng nghiệp và tình bạn bè thân hữu mà cuối năm mới có dịp ngồi lại tâm tình để cái tình ấy thêm nồng nàn, thêm gắn chặt hơn nữa.
Nét đẹp trong văn hóa và trong lối sống cộng đồng Việt Nam chính là “biết ơn” và “biết tạ ơn”. Là người công giáo Việt Nam, chúng ta luôn biết trân trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Như trong Văn Kiện Hướng Dẫn Thờ Cúng Tổ Tiên của Hội đồng Giám Mục Việt Nam đã đề cập trong Lời Kết: “Con đường hội nhập văn hóa bao giờ cũng đầy chông gai nhưng trước bất cứ khó khăn nào, Giáo Hội Việt Nam vẫn không bỏ cuộc hay dừng bước vì đức tin không trở nên văn hóa sẽ là đức tin không được đón nhận trọn vẹn, không được suy nghĩ thấu đáo và không được sống cách trung thành”.

Mỗi gia đình công giáo vẫn có cách thức riêng là xin lễ tạ ơn cuối năm ngay tại giáo xứ mình để cùng hiệp lời với cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa đã giữ gìn bình an, sức khỏe cho gia đình trong suốt một năm qua.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn che chở và gìn giữ mỗi gia đình Kitô hữu chúng con hạnh phúc và bình an trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng con luôn thân thiện, luôn biết tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu Đức Kitô với hàng xóm và những người xung quanh.
#tet #nam2021 #tansuu
Nguồn: Andre Phong

KHOẢNG LẶNG CUỐI NĂM

Cuối năm tản mạn đôi dòng

Như trải tấm lòng thao thức suy tư

Cuộc đời một khoảng-thực-hư

Giã từ năm cũ, đón chờ tân niên

Tôi ngồi trầm ngâm tính “sổ đời” và lật lại những trang lòng. Một sợi tóc quên xanh bất chợt rụng xuống trên trang viết. Thảng thốt. Vậy mà đôi khi tôi cứ ngỡ mình còn trẻ. À, tuổi xuân đã đi qua. Cơn lốc nào vẫn xoáy tít giữa dòng đời khiến ước mơ choáng váng? Những cơn mưa có lúc rất dễ thương, có khi lại bất chợt và vô tình làm ướt sũng vai áo bạc sờn. Vạt nắng có lúc vàng óng như tơ thong thả soi bóng lũy tre xanh đang rì rào ru giấc trưa, có khi lại hăng nồng, oi ả và gay gắt. Thế mà vẫn không đủ độ nóng hong khô một nỗi nhớ xa ngái. Mênh mang và mơ hồ. Mùi đất xông lên ngai ngái…

 Bao năm ròng rã bôn ba giữa chợ đời, lòng tôi hóa cằn cỗi quá! Đam mê lúc đầy, lúc vơi, như sóng vỗ xô lòng tôi nghiêng chao, chênh vênh, khiến tôi như cánh bèo trôi giạt mãi lạc loài trong mấy vần thơ và dăm nốt nhạc. Tôi ngu ngơ đến nỗi tưởng chừng hóa thành tảng băng trên vùng Bắc cực. Tiếng xe cộ ngược xuôi ồn ào, tiếng ba gác khô khốc trên phố xá mà tôi vẫn trơ trơ hay đã bị đồng hóa? Tôi thèm nghe nhịp chân ngựa dồn vang xa, phía sau là chiếc thổ mộ mộc mạc. Ôi, một thoáng quê hương đã xa ngái!

 Nửa đời vụt qua nhanh, tôi đã bước qua bên kia con con dốc cuộc đời. Cuối năm, sực nhìn lại mình và thốt nhiên nhận ra vị trí riêng mình thì hầu như đã là những giây phút của một sự muộn màng nào đó. Không thể không bâng khuâng. Lòng chùng xuống như sợi dây đàn khi thời tiết ẩm ướt. Rối bời những lo toan, bộn bề những nghĩ suy. Tôi như chiếc độc bình hiu quạnh đầy bụi bặm nằm lặng lẽ ở một góc đời. Lẽ nào tôi thành lạc hậu trong xã hội xa hoa và văn minh hôm nay mất rồi sao? Mơ ước vẫn vời xa… Tôi cứ loanh quanh mãi, như cố NS họ Trịnh tự vấn: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi! Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt? Trên hai vai ta đôi vầng Nhật, Nguyệt. Dọi suốt trăm năm một cõi đi về!” (Một Cõi Đi Về).

 Tôi lang thang ra phố tìm vào một quán cà-phê vắng khách. Tĩnh tọa. Nhánh-sông-tôi vẫn trầm và vẫn động. Tiếng nhạc êm ả huyền thoại, giai điệu vẫn mượt mà. Cô chủ quán xinh xắn, dịu dàng, và đôn hậu “vô tình” bỏ quên nụ cười bên tách cà-phê đen. Những giọt buồn thánh thót, đều đặn. Âm nhạc đột biến thăng, giáng, xa vắng… Có nốt nhạc nào về dấu bình như thường? Âm nhạc chuyển điệu và biến tấu, lúc khoan, lúc nhặt. Cuộc đời cũng thế! Cà-phê bao giờ cũng vậy, đắng mới ngon. Lặng nghe vị đắng ngấm vào cơ thể để nghe xót xa cõi lòng. Chút dư vị làm tê lưỡi, môi miệng đắng đót như người trong cơn bệnh trầm kha. Đắng mà thú vị. Nhưng không ai thích cà-phê-đời có vị đắng! Tôi vê tròn nỗi đam mê thành điếu thuốc để đốt cháy những sợi tương tư thảo. Mấy đầu ngón tay đã vàng vọt…

 Giao mùa. Giao thừa. Thời gian cứ vô tình dẫu nỗi buồn đã già nua.

 Ngày mai tôi cũng sẽ như chiếc lá vàng rụng xuống từ giã mùa Thu để nhường bước cho mùa Đông lạnh lẽo. Tất nhiên thôi. Qui luật muôn đời: Sinh ký, tử quy. Sợi tóc bạc màu thời gian báo hiệu sự lão hóa thể lý. Nuối tiếc? Có thể. Tôi vẫn chưa làm gì được xứng đáng mặt mày râu, đường đường một tu mi nam tử. Không phải người ta sợ già mà người ta chỉ nuối tiếc tuổi xuân vụt qua như bóng câu. Thời gian vẫn vậy, nhưng thời gian có thể dài hay ngắn tùy tâm trạng con người. Thân phận con người mỏng dòn, nhỏ nhoi và yếu đuối quá đỗi! Thế mà đôi khi “tôi không làm điều tôi muốn mà lại làm điều tôi không muốn” (Thánh Phaolô). Tôi còn mang nhiều vị kỷ. Ôi, “cái TÔI thật đáng ghét” (Pascal). Khoảng buồn mênh mang bởi cái nghịch lý của sự yếu-đuối-nhân-loại ấy!

 Màu tím choàng lên vai năm tháng. Chiều lên hay xuống? Vừa lên vừa xuống. Lời chiều réo gọi khi hoàng hôn rủ bóng. Sắc nhớ đã nhắc nhở về trăm năm hữu hạn kiếp người, mong manh và ngắn ngủi. Đâu khác chi bông hoa trước gió lộng, vì tôi chỉ được hóa thân từ cát bụi. Thiết nghĩ, nếu chiều dài của đời người là 1 m thì công thức có thể được tính là: 9 dm buồn + 1 dm vui. Một thực tại hẳn là quá phũ phàng! Đời người cũng như ngọn nến hao mòn khi được thắp sáng. Nhưng thắp sáng ở đâu và hao mòn cho ai? Cuộc sống hữu ích sẽ không là nghiệp chướng (theo cách nói nhà Phật) dù vẫn chỉ là một kiếp người.

 Cõi lòng chợt tím. Tím đa sắc màu. Tím nhớ, tím mong, tím bâng khuâng, tím buồn, tím lo toan,… Càng sống lâu thì trái tim càng “cũ”. Vì thế, cần có tình yêu thương và lòng vị tha như chất sira để “đánh bóng” trái tim đã bị mờ nhạt vì bụi trần. Tôi đã, đang và mãi mãi cần một trái tim mới và bóng láng để phần nào phản chiếu được ánh sáng Chân-Thiện-Mỹ. Thước đo lòng tốt là tình yêu thương, không kỳ thị ai vì bất kỳ lý do nào. Sống tốt không chỉ là không làm điều ác (tiêu cực) mà còn phải làm điều thiện (tích cực). Khó thế mà tôi chẳng những yếu đuối mà lại đầy Tham-Sân-Si, khát vọng khôn nguôi, tháng ngày bất túc,… Con dế trũi cũng biết lặng rung cánh ưu phiền. Nhánh cỏ dại bên đường dẫu khẳng khiu vẫn “cam chịu” cả nắng sớm lẫn mưa chiều. Biển có bình yên vẫn còn sóng lăn tăn vết buồn, nhưng biển ngàn năm vẫn mặn và bao la, luôn sẵn sàng bồi đắp phù sa.

 Cuối giờ, cuối ngày, cuối tháng, cuối năm. Ít nhiều gì tôi cũng phải chuẩn bị cho cuối đời. Trời đất có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Có mùa nào là “mùa tôi” trong chốn phù trầm này? Tôi chợt thèm uống vài giọt piano cho cõi lòng mát rượi.

 Tản mạn đôi dòng cuối năm để tập trung suy nghĩ. Xin cảm ơn nỗi khổ. Xin cảm ơn gian truân. Xin cảm ơn cuộc đời. Xin cảm ơn thời gian. Vì chính tôi đã nhận như không cả một niềm-khát-vọng-vươn-tới-hạnh-phúc-không-ngừng. Quả đúng là có năm cung bậc dẫn đến khôn ngoan là lặng thinh, lắng nghe, ghi nhớ, hành động, và học tập (Tục ngữ Ả-rập). Âm nhạc Việt Nam cũng có hệ thống ngũ cung, nghe rất lạ. Thâm thúy dường bao tư tưởng của một thi sĩ xưa:

 Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

 Và rồi mùa Đông giá lạnh cũng sẽ qua để con dơi bừng giấc Đông. Và bình minh lại vươn cao để gọi nắng Xuân về chiếu tỏa, sưởi ấm mọi miền cho ngàn hoa khoe sắc, cho cây lành, trái ngọt. Tôi lại tiếp tục khởi sự một-bắt-đầu. Dù thế nào cũng vẫn cần phải “dậy mà đi” (Ngô Tất Tố), như dòng sông không ngừng chảy. Vâng, “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!” (Trịnh Công Sơn). Hãy cố gắng là một đóa hồng trao tặng cuộc đời. Con chim vẫn hót dù biết mình sắp bị mũi tên bắn trúng. Như vậy, tôi phải sống thăng hoa, vượt lên mọi chướng ngại. Tôi cố gắng viết những gì tôi sống, và sống những gì tôi viết…

 Cuộc sống có biết bao điều khiến người ta sợ, không ai giống ai và với các mức độ khác nhau. Nhưng chính Chúa Giêsu nhiều lần khuyến khích: “Đừng sợ!” (St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 41:10; Is 41:13; Is 43:1; Is 43:13; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18). Lời động viên ngắn gọn, giản dị mà đầy đủ ý nghĩa, nhưng lại không dễ thể hiện!

 Dù chưa làm được điều mình muốn, nhưng tôi vẫn muốn làm điều mình mơ ước. Tôi muốn cố gắng noi gương người Samari nhân hậu (Lc 10:29-37). Tôi không muốn tranh giành như hai con ông Dêbêđê (Mt 20:20-23; Mc 10:35-40). Tôi muốn sống theo lời Chúa Giêsu khuyên phục vụ (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Tôi chỉ như ông Ladarô (Lc 16:19-31) nghèo khổ, và như ông Mátthia (Cv 1:24-26) điền vào chỗ trống cho đủ. Con người rất dễ kiêu ngạo, thế nên tôi cần cố gắng sống khiêm nhường (Ga 13:1-20), tự khó với chính mình. Tôi chỉ là người phụ nữ ngoại tình (Ga 8:2-11), là người thu thuế (Lc 18:13), nhưng tôi tin Chúa Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống (Ga 14:6).

 Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, con tín thác vào Ngài! Xin hướng dẫn con từ lúc con bắt đầu suy nghĩ để con có thể hành động đúng Tôn Ý Ngài, vì tất cả đều bởi Ngài và là của Ngài, xin giúp con quản lý tốt những “nén” mà Ngài giao phó cho con để sinh lợi cho Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa cứu độ của con. Amen.

 TRẦM THIÊN THU

Người Tôi Yêu

Các bạn trẻ thân mến, Là phận nữ nhi, theo lẽ thường tình, lớn lên đến tuổi lấy chồng, ai cũng mong mình có được người bạn trai lý tưởng: Đẹ...