Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015

Cầu Nguyện Cho Các Tu Sĩ

Để cứu độ con người, Thiên Chúa đã phải hạ giới làm người, sống như con người, là một con người trọn vẹn. Cuộc đời tại thế của Người kết thúc bằng cái chết nhục nhã trên thập giá. Dù đã phục sinh, nhưng Ngôi Lời Nhập Thể biết rằng Ngài không thể suốt đời suốt kiếp sống kề bên con người một cách nhãn tiền và hữu hình được. Sẽ đến lúc Ngài phải ra đi và đồng hành bên con người theo một cách thức khác. Thế nên, trong quãng thời gian còn ở dương thế, Ngài đã mời gọi một số người đến với mình, ở với mình, nghe những lời giáo huấn của mình, để sau này Ngài có thể sai họ đi, tiếp nối bước chân và sứ mạng cứu thế của Ngài.
Ai cũng được mời gọi bước theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Ngài, nhưng có một số người được Giêsu mời gọi theo cách thức khác để ở với Ngài riêng tư hơn. Họ chưa hẳn là những con người xuất chúng hay lỗi lạc. Cũng chưa hẳn họ là người thánh thiện hơn, hiền hòa hơn, dễ thương hơn những người khác. Có khi họ cũng bồng bột như Phêrô, nóng nảy như Giacôbê, cuồng nhiệt như Phaolô. Nhưng tiếng gọi đến với họ thật bất ngờ, khiến nhiều khi bản thân họ cũng không thể nghĩ tới. Tiếng gọi ấy nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ, êm dịu nhưng cuốn hút tâm hồn, khiến họ cứ luôn nghĩ về nó mãi không thôi. Họ cũng là những con người bình thường như bao người khác, vẫn là những người nam người nữ muốn được ăn sung mặc sướng, muốn có một tổ ấm cho riêng mình, muốn được ấp ôm chiều chuộng, muốn được sở hữu ai đó làm của riêng, muốn sống một đời tự do tự tại, thỏa mãn những sở thích của mình. Nhưng bỗng dưng, một lời mời gọi lạ kỳ nào đó xuất hiện trong lòng, vào một phút bất chợt nào đấy, lôi kéo họ đến việc từ bỏ tất cả, chỉ để đi tìm sự thân mật riêng tư với một mình Giêsu và phục vụ tất cả những con người khác.
Đi tu là chọn lựa tự do của một cá nhân, nhưng đó không phải là một chọn lựa do sở thích con người thúc đẩy. Tiên vàn, nó xuất phát do một lời mời tự cõi trời vọng xuống trong tâm hồn người được chọn. Giỏi giang, thánh thiện, tài năng… không phải là tiêu chí tối cần của một đời sống tu. Ngay cả bản thân người đi tu cũng không hiểu tại sao mình được chọn, mà không phải là ai khác nổi trội hơn mình. Ơn gọi dâng hiến, đích thực là một ơn ban, một qua tặng nhưng không của Chúa, không phải là cái mà con người có thể sở đắc bằng khả năng của mình.
Có những tu sĩ một đời khuôn mình trong dòng kín, làm bạn với những câu kinh, những bài thánh ca ngợi khen Chúa. Họ lấy những công việc chân tay tầm thường nhỏ bé làm niềm vui. Có người xông pha trên những biên cương xa lắc, đối mặt với những sóng gió dặm trường, gặp gỡ những con người ở phía chân trời xa xôi, ngôn ngữ khác, văn hóa khác, có khi tính mạng cũng chẳng được đảm bảo ngày mai. Có người sáng tối trò chuyện, nâng đỡ những bệnh nhân đang sắp sửa bước vào cõi chết. Sự hiện diện, sự săn sóc, những lời hỏi han, dù có thể không làm người ta lành bệnh, nhưng cũng đủ để các bệnh nhân ấy nở một nụ cười tươi trước khi lìa thế. Hành trình xuôi ngược vượt non cao, băng rừng sâu, qua biển lớn, để mang Tin Mừng đến cho người khác là điều mà các tu sĩ dần trở thành thân quen. Nơi đâu vắng niềm vui, họ thắp lên hy vọng. Nơi đâu đang tăm tối, họ nhóm lửa yêu thương. Họ đi khắp tứ phương thiên hạ, mang trong tim hình bóng của Giêsu, để sưởi ấm lòng người. Họ cứ mãi bước đi, và chỉ dừng lại khi đôi chân không còn đi được nữa.
Dù được chọn lựa cách đặc biệt, nhưng các tu sĩ vẫn là những con người bình thường với biết bao những yếu đuối, mong manh như bao người khác. Có những mỏi mệt đâu ai biết. Có những phút cô đơn đến vô chừng. Có những chán chường không ai thấu. Có những lắng lo như gào xé con tim. Người tu sĩ phải sống giữa căng thẳng: chân thì đạp đất mà đầu thì hướng về trời cao, cũng muốn được yêu thương nhưng không được phép nắm giữ, cũng muốn được sở hữu nhưng lại không thể thỏa mãn cho bản thân. Họ sống trong thế gian nhưng lại không được để thế gian thống trị mình. Biết bao hiểm nguy và cám dỗ đang rình rập các tu sĩ, lôi kéo họ đến chỗ phản bội lời thề hứa đã có với Chúa, xúi giục hãy bỏ thập giá Đức Kitô xuống giữa đường.
Chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện cho các tu sĩ. Xin Chúa ban cho họ sức mạnh của Thánh Thần để họ luôn ý thức về ơn gọi cao quý mà họ đã và đang lãnh nhận. Xin cho họ biết tìm đến với Giêsu để nương ẩn những khi thấy trong lòng bất an. Xin cho họ đừng bao giờ tìm bù trừ trong đời dâng hiến, nhưng hãy biết thánh hóa tất cả những hy sinh và thiệt thòi của mình. Xin cho họ biết dành phần hơn cho người khác, biết mỗi ngày nhỏ lại, chịu tiêu hao đi để ngọn lửa tình yêu của Đức Kitô được bừng cháy trên trần thế này.
 Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
video: dongten.net

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Biết điểm dừng

Tuổi trẻ là khoảng thời gian mà người ta cảm thấy có nhiều năng lượng nhất. Ở lứa tuổi này, ta có cảm tưởng như mình có thể làm được mọi chuyện, có thể vượt qua được tất cả mọi chông gai thử thách. Với nguồn năng lượng dồi dào ấy, người trẻ chẳng quản ngại điều gì, chẳng lo sợ điều chi, vì chẳng bao giờ họ thấy mình kiệt sức. Họ muốn chinh phục những đỉnh cao, muốn đối đầu với mọi thử thách, muốn lao mình vào những chỗ cam go. Đây cũng là lứa tuổi mà ta chẳng sợ gì cả. Không sợ trời, không sợ đất, ta tự thấy mình làm chủ chính mình chứ chẳng cần ai sửa dạy hay chỉ bảo. Ta tự cho mình có tự do vô hạn nên muốn làm gì thì làm, mà chẳng cần kiêng nể ai, chẳng cần nghĩ đến tương lai, không lo bận tâm đến hậu quả, vì ta nghĩ là mình có đủ khả năng để giải quyết tất cả.

 Có được một nguồn năng lượng dồi dào như vậy là một điều rất tốt nhưng cũng có thể là một điều xấu. Nó sẽ trở thành tốt khi ta biết sử dụng nó vào những mục đích sinh lợi nhằm tạo lập nền tảng vững chắc cho tương lai của mình. Nó sẽ trở nên xấu khi ta phóng đại nó lên, ảo tưởng về mình và đặt nó vào những hành vi tai hại. Đặc biệt, khi đang hứng thú chuyện gì đó, khi đang bị cảm xúc đưa dẫn, ta thường khó làm chủ mình, nhưng cứ để chúng kéo mình đi quá đà đến mất kiểm soát. Để rồi, khi nhìn lại, ta thấy mình đã lạc đường, mất hướng, thậm chí còn đánh mất những điều quý giá mà ta từng sở hữu trước đây. Cuộc sống là một cuộc hành trình tiến về phía trước. Nhưng ta không bước đi với một đôi mắt mù lòa hay bị đưa đẩy một cách vô thức. Phải có những lúc ta biết đâu là điểm dừng của mình. Biết điểm dừng không phải là hèn nhát nhưng là biểu hiện của sự khôn ngoan.

 Vui chơi với bạn bè là điều tốt. Để cuộc vui được trọn vẹn, ta phải chơi hết mình. Nhưng hết mình không phải là đánh mất chính mình. Cứ mỗi khi hứng chí, hay khi có men say thấm vào người, ta thường không kiểm soát được những gì mình nói, những gì mình làm. Những hành vi của ta khi ấy dường như không nằm dưới sự kiểm soát của ta nữa, nên rất nhiều khi gây ra những điều nguy hại. Có óc hài hước và biết nói đùa là điều tốt. Nhưng có khi những lời nói đùa của ta không mang đến tiếng cười, mà vô tình làm tổn thương người ta. Có một tương quan là tốt, vì tương quan giúp ta thăng tiến chính mình và làm cho cuộc sống của mình thêm triển nở. Nhưng không phải tương quan nào cũng như tương quan nào. Mỗi tương quan đòi hỏi nơi ta một ý thức và một trách nhiệm riêng. Có những tương quan ta phải dấn thân trọn vẹn để vun đắp; nhưng cũng có những tương quan mà ta không được phép vượt qua ranh giới ngăn cản… Và còn có rất nhiều ví dụ tương tự như thế!

 Sở dĩ ta phải biết điểm dừng là vì ta không phải là người toàn năng, ta không thể làm được mọi thứ và không thể đảo ngược thời gian để thay đổi những gì ta đã gây ra. Tạo Hóa đã ban cho con người chúng ta có tự do để làm gì mình muốn, nhưng Ngài cũng ban cho chúng ta có lý trí nhận định và cân nhắc để không sử dụng tự do của mình đi quá giới hạn. Ta thường dễ để mình hùa theo những thúc đẩy, hơn là mạnh dạn dừng lại trước khi đi quá xa. Người biết điểm dừng là người làm chủ được chính mình, người đó có ý thức cao về mình, có lập trường vững chắc và không bị những trào lưu hay cảm xúc dẫn dắt. Họ biết giới hạn của mình và họ không làm gì để vượt qua giới hạn đó. Họ biết dừng vì họ ý thức về sự hữu hạn của mình. Họ không ảo tưởng, không hống hách, không ngang tàng, không bướng bỉnh, không cố chứng tỏ bản thân, không cần những danh dự hão, không bị những thách thức và khiêu khích của người khác khuấy động tâm can. Vậy nên, để có thể dừng lại, người ta phải có một sức mạnh rất lớn trong mình.

Biết điểm dừng và dừng lại khi cần thiết không phải là thất bại, không là nhút nhát, nhưng là khiêm nhường, khôn ngoan và ý thức về giới hạn của mình. Ngược lại, những ai bất chấp và điên cuồng, không biết dừng lại chính là những người ảo tưởng, kiêu ngạo và ngu dốt. Dừng lại cũng không có nghĩa là ta không có quyền làm điều gì đó, nhưng là ta biết rằng mình không nên làm. Quả vậy, người nào biết dừng lại kịp thời là người còn làm chủ mình, còn sống dựa vào lý trí của mình, chứ không “mất tay lái” và bị những xúi dục thúc đẩy lôi kéo.

Rất nhiều khi, ta bị rơi vào cạm bẫy bởi những khiêu khích của người khác. Những khiêu khích ấy đụng chạm đến lòng tự ái của ta. Ta không muốn thua ai, ta không muốn bị ai coi thường. Cái tôi muốn chứng tỏ trong ta bừng dậy, thúc đẩy ta cứ thế mà “chơi tới bến”, chẳng ngán chẳng sợ gì, bất chấp cả hậu quả. Cũng có khi ta bị những thúc đẩy của đam mê và cảm xúc lôi kéo. Yêu người này, thích người nọ, muốn làm điều kia… dù biết rõ là sai, là không được phép, là đi ngược lại với chân lý, là không có tương lai ta vẫn cứ nhắm mắt đưa chân vào. Bỏ ngoài tai những luân thường đạo lý, những lời khuyên hữu ích, ta cứ vô tư “vượt rào” để chiều theo những cảm xúc ấy. Càng đi vào sâu, ta càng cảm thấy mình không thể bứt ra được, và cứ thế, ta trở nên nô lệ cho chúng, ta đánh mất chính mình, đánh mất tương lai của mình, đánh mất cả những gì tốt đẹp mà ta đang thụ hưởng.

Cái ngông nghênh của tuổi trẻ còn nằm ở tính kiêu ngạo và ảo tưởng nữa. Vừa mới vào đời, kinh nghiệm còn non nớt, kiến thức chưa tới đâu, nhưng lúc nào ta cũng cho là mình đã trải qua phong sương, đã biết hết tất cả. Chính từ thái độ tự phụ ấy, ta chẳng coi ai ra gì, chẳng thèm nghe theo lời khuyên bảo của người khác. Có đôi khi ta còn muốn chứng tỏ bản lĩnh của mình, muốn cho người khác thấy ta tài hoa ra sao, để người khác phải thần phục và khen mình bằng những lời tán thưởng. Bởi thế, ta không thể chấp nhận được thì có ai đó chê ta, không coi ta ra gì. Cái thói chứng tỏ mình nhiều khi làm cho ta trở nên điên cuồng và bất chấp tất cả, chẳng biết đâu là điểm dừng để ngừng lại và trau dồi bản thân hơn.

 Các bạn trẻ thân mến, hãy dừng đúng lúc đúng nơi. Điều đó chẳng gây thiệt hại gì cho các bạn cả. Nhưng nó sẽ nói cho người khác biết, bạn đích thực là một con người vững mạnh vô cùng. Có một định nghĩa cho rằng người trưởng thành là người biết nói “không” khi cần thiết.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2015

Cáo Phó Chúa Giêsu

Trong niềm tin vào tình thương của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, chúng tôi thành kính báo tin cùng các anh em môn đệ, thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần và toàn thể nhân loại:
Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Thầy, Người Yêu và Bạn của chúng tôi là: GIÊSU KITÔ
Đã được CHA gọi về vào giờ thứ chín ngày Lễ Vượt Qua, khoảng năm 26 sau Công Nguyên (AD), tại Giêrusalem, hưởng dương 33 tuổi.
Nghi thức hạ xác, tẩm liệm sẽ được tổ chức trên đồi Golgotha, sau đó linh cửu sẽ được mai táng trong mồ đá gần đó.
Ngày giờ có thể đi viếng mộ: sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhất trong tuần (nếu bạn sống ở thế kỷ 21 hãy đến thăm viếng vào Tam Nhật Thánh tại các nhà thờ Tin Lành hoặc Công giáo, Anh Giáo).
Kính xin mọi người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa Cha đã ban Con Một của Ngài xuống thế để cứu chuộc nhân loại.

TIỂU SỬ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ
Họ và tên: J.hoschua (tiếng Do Thái) hoặc Jesua hay Jesu (tiếng Aramê), Giêsu (tiếng Việt).
Danh hiệu: “Messiah” có nghĩa là “Đấng được xức dầu”.
Quốc tịch: Do thái, thuộc hoàng tộc David.
Năm sinh: năm 7 trước Công Nguyên (trước khi vua Hêrôđê băng hà ít lâu: 4 năm trước CN).
Nơi sinh: chuồng chiên, tại Belem.
Nơi thường trú: Nazareth.
Ngôn ngữ: tiếng Aramê của miền Galilêa.
Cha mẹ trần thế: Giôsép (Giuse) và Maria.
Cha thiên quốc: Chúa Cha
Ngày chịu phép cắt bì: 8 ngày sau khi sanh.
– Ngày tiến dâng cho Thiên Chúa
: năm 12 tuổi.

Nghề nghiệp: thợ mộc (teknos), nghề của cha Giôsép (Giuse).
Gia tài: Không có gì, ngoài chiếc giường duy nhất là cây thánh giá.
Học vấn: tại gia, trường Giuse-Maria.
Tình trạng: độc thân.
Hoạt động công khai: năm 30 tuổi.
Địa bàn hoạt động: giảng dạy khắp nơi, nhưng phần lớn chung quanh hồ Galilêa, mà trọng tâm là thành phố ngư phủ Capharnaum. Thời gian hoạt động chừng 2 năm rưỡi.
Đề tài rao giảng: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến.
Bài giảng đầu tiên: Bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật.
Các môn đệ: dù không phải là Rabbi, nhưng Ngài đã chọn ra 12 Tông đồ là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Chúa Giêsu cho các thượng tế.
Các phép lạ: nước hóa thành rượu, năm chiếc bánh và hai con cá nuôi năm ngàn người ăn, chữa lành các bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại…
Bữa tiệc sau cùng: Bữa Tiệc Ly.
Tội phạm: Giới thẩm quyền Do thái đã tố cáo Ngài phạm thượng.
Bản án: Chính quyền Roma, đại diện là Pontio Philatô, đã lên án Ngài và cho đóng đinh vào thập giá.
Hành quyết: bị đóng đinh sau trưa ngày lễ Vượt Qua, tại một nơi nằm ngoài vòng đai thủ đô Giêrusalem.
Mai táng: trong mồ đá, tại một chỗ không xa nơi hành quyết.
Nơi chết: Trên đồi Golgôtha.
Các biến cố lịch sử trong đời: Giáng sinh tại Bêlem, chịu phép rửa trên sông Giođan, biến hình trên núi Tabor, chịu chết trên đồi Gôlgotha, sống lại từ cõi chết, và lên trời.
Bảy lời sau cùng: “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng” (Lc. 23:32-34), “Ngày hôm nay con sẽ được ở với Ta trên Nước Thiên Ðàng” (Lc. 23:35-43), “Này Bà, đây là con Bà!” (Ga. 19:16-27), “Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi, nhân sao Chúa bỏ tôi” (Mt. 27:45-47 Mc. 15:33-36), “Ta khát” (Ga. 19: 28-29), “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga. 19:30-37), “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc. 23:44-56).
Tấm gương kỳ cục nhất: Rửa chân cho các môn đệ.
Lời sau cùng trước khi về trời: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Báp-têm (phép rửa) cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Dấu tích đặc biệt: Năm dấu thánh.
Tác phẩm để đời: Lời, Mình và Máu Thánh mang lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Biến cố vĩ đại sắp làm: Lại đến lần thứ hai trong vinh quang để thẩm xét tất cả những người đang sống hay đã chết!
Tang gia đồng khấp báo. Cáo phó này thay thế thiệp tang.

Xin miễn phúng điếu và tặng vòng hoa, nhưng dùng tiền để giúp người nghèo.

Đại diện:
Tông đồ Phêrô

Người Tôi Yêu

Các bạn trẻ thân mến, Là phận nữ nhi, theo lẽ thường tình, lớn lên đến tuổi lấy chồng, ai cũng mong mình có được người bạn trai lý tưởng: Đẹ...